October 25, 2012

October 26, 2012

Ngày 22 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Mount Sterling là một thị trấn ở tiểu bang Iowa, nếu có thể gọi đó là một thị trấn, với khoảng 40 dân, nổi tiếng với những chuyện kể sau những chuyến đi săn và đi câu của họ. Mount Sterling cũng có một hội đồng hàng tỉnh và một ông thị trưởng. Năm ông đang đưa ra một dự luật, và nếu dự luật được thông qua, mà chắc chắn sẽ được thông qua, thì chẳng bao lâu, thị trấn sẽ không còn một người dân nào sống ở đó nữa.
Lý do là cả năm ông định thông qua và ban hành một dự luật coi nói dối là một tội có thể bị phạt tù. Năm ông cho biết là đã quá chán những thứ câu chuyện trong mùa săn và mùa câu của người dân trong tỉnh, những thứ chuyện mà người Mỹ vẫn nói là hệt như những chuyện tiền bầu cử của các ứng cử viên, toàn là những điều láo khoét, phét lác không có lấy được một nửa cà-ram sự thật ở trong.
Thế nên cả ông thị trưởng lẫn các ông trong hội đồng hàng tỉnh đề nghị một bộ luật bỏ tù những tay nói dối.
Khi dự luật được thông qua và ban hành, chắc không còn ma nào dám ở lại tỉnh nữa. Nếu người ta tiếp tục ở lại, chắc cả tỉnh sẽ mắc bệnh câm hết, không ai dám mở miệng ra nói với nhau điều gì nữa.
Chồng sẽ không dám nói gì với vợ, vợ không dám nói gì với chồng nữa.
Thí dụ ông chồng vừa mở miệng khen vợ đẹp, có duyên … thì lập tức cảnh sát có thể ập vào nhà còng tay tống vào tù chờ ngày ra tòa ngay.
Khen vợ trẻ, võ khí có khả năng hủy diệt qui mô của Iraq cũng không bằng thân hình nguyên tử của vợ là có thể bị đi tù mút chỉ.
Vợ cũng không thể khen chồng là hay, là giỏi sau khi chồng uống một hai viên Viagra nữa. Thứ thuốc này không còn có thể gọi là thuốc chồng uống, vợ khen hay nữa. Khen thế là láo toét, tha hồ đi tù. Thế là không ai được nói những điều tử tế về nhau nữa. Cứ nói thật ra thì mới sống được.
Thành phố Mount Sterling sẽ trở thành một nơi dân chúng ăn nói thô tục với nhau, không còn văn minh lịch sự gì nữa. Muốn sống nhẹ nhàng với nhau, cử án tề mi, lúc nào cũng như Mạnh Quang đối với Lương Hồng đời Hán, lịch sự, văn học nghệ thuật với nhau là không được. Phải dùi đục chấm nước mắm cáy. Không có ống nhún làm gì nữa. Ðường xấu thì cứ để sóc cho tỉnh người ra. Không bọc đường cho dễ nuốt nữa.
Chồng xấu trai, ăn nói vô duyên, hôi nách, không văn học nghệ thuật, ợ to, ngáy lớn thì cứ nói thẳng ra. Nói ngược lại là vào tù ngay lập tức.
Mount Sterling sẽ là một thành phố chết. Không ai có thể ở đó được. Mà cũng không ai dám tổ chức ra mắt sách, ra mắt thơ ở đó nữa. Nếu còn dám lôi nhau lên đó ra mắt sách, thì tác giả và người giới thiệu có thể sẽ phải giết nhau nếu không muốn vào tù. Những câu ngợi khen văn tài của tác giả có thể làm cho tác giả phải đi sửa cho mũi nhỏ lại và nhà phê bình văn học ngồi tù đến chết.
Cũng thế, các giọng hát Karaoke ra cái CD sẽ chỉ tiếp tục làm khổ những cái tai chồng con và làm ô nhiễm không khí thành phố, không bao giờ dám lên Mount Sterling ra mắt để mang họa vào cho bạn bè và thân hữu được dụ đến buổi ra mắt và ép mua CD nữa.
Nhưng có thể thành phố này sẽ rất được các thẩm mỹ viện biết ơn và yêu quí.
Thí dụ các ông chồng thay vì nói: “Em đẹp quá à … đừng có sửa gì nhá… Giời cho sao thì xài vậy … mà giời cho đẹp quá rồi sửa làm chi… trái mệnh giời là giời ghét cho thì phiền lắm đấy…” các ông chồng sợ vào tù vì không nói thật, thế là cứ chiếu luật cấm nói dối ra mà nói rằng:” Này … trông sốt ruột lắm rồi đấy nhá… có biết đêm đêm thức giấc ngỡ ngàng … ngó sang bên cạnh tôi đã bao nhiêu lần phải rú lên vì hết hồn không? Sao không đi sửa đi cho hàng xóm cần sự yên lặng nghỉ ngơi? Ðến mấy ma-đam nhờ các ma-đam bơm, hút, căng, kéo toàn bộ lại coi … đời sống ngắn quá mà, cho tôi sống với mà … “
Vì thế, bộ luật mới của Mount Sterling thực ra cũng có những tốt đẹp của nó đấy chứ.

Ngày 23 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Hội nghị 6 của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản vừa chấm dứt hôm 15 tháng 10 tại Hà Nội thì hai ngày hôm sau, ngày 17 tháng 10, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đưa ra vài ba phát biểu trước một số cử tri ở Sài Gòn và được đài VTV1 tường thuật lại nguyên văn trong buổi phát hình trong ngày.
Sau khi nói rằng hội nghị nhìn nhận đã có một số sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng, Trương Tấn Sang cho biết là hội nghị đã quyết định không thi hành biện pháp kỷ luật nhắm vào các thành phần phạm lỗi.
Sau đó, Trương Tấn Sang đã nói nguyên văn như thế này, "… nếu chúng ta cứ sợ hãi, cứ để những kẻ xấu len lỏi trong Đảng, trong nhà nước làm những điều sai trái, làm phương hại đến lợi ích quốc gia, phương hại đến toàn dân chế độ thì thử hỏi toàn dân này, toàn đảng này, toàn quân này, chấp nhận được không? Chắc chắn không chấp nhận được."
Đây là thú nhận hiếm có của một nhân vật cao cấp trong hệ thống cầm quyền ở Việt Nam.
Nhưng những "kẻ xấu" đó là ai? Trương Tấn Sang cho biết bọn này đã len lỏi vào trong Đảng, trong nhà nước để làm bậy. Chúng làm những chuyện hết sức bậy, những chuyện không ai có thể chấp nhận được, cho dù đó là chính phủ, Đảng, nhân dân và toàn quân.
Thế là người dân, cứ căn cứ vào những điều Trương Tấn Sang đưa ra mà nói, cóc sợ nhà nước và Đảng bắt lôi đi mất tích như cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị đổ cho tội chống phá nhà nước nữa nhá. Nhưng kẹt một điều là Trương Tấn Sang không nêu đích danh những kẻ xấu đó là những thằng, những con mả mẹ nào, mà chỉ nhắc đến "đồng chí X.".
Ngày xưa, bị ăn cắp mất con gà, không biết thằng ăn trộm gà là thằng nào, con nào, mồm ngang, mũi dọc ra sao, các cụ bắc ghế ra giữa sân mà chửi, thế là đứa ăn trộm gà, nghe chửi đào ông cha, cố nội, cố ngoại lên thì động lòng phải thả gà ra. Bây giờ, cũng chửi thật dữ vào là có đứa phải ra mặt cho mà coi…Thí dụ phải chửi như thế này:
"Ối làng trên xóm dưới ra đây mà nghe , cha tiên nhân cái con mả mẹ nhà cái thằng chết đâm, chết xỉa, cái con chết chém, cái con đĩ chết bầm len lỏi vào Đảng mà tham nhũng, hốt cứt cho Tầu phù, cõng rắn về cắn gà nhà của tao nhá … tao thì bảo cho cả lò, cả làng, cả xã, cả tổng, cả họ, cả chi, cả ngành, cả thằng cha tiên sư bố ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh em thúc bá đệ huynh nhà mày nhá… cái thằng đứng chiếu ngang, cái thằng sang chiếu dọc, cái thằng đọc văn tế, cái thằng bế cái hài, cái thằng nhai cái thủ lợn kia ơi… Cái Đảng của tao nó là cái con đĩ bà nội của Bác Hồ cùng với bọn chết tiệt Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Tấn Dũng … móc từ Liên Xô về để giầy xéo cái mả bố mả mẹ nhà chúng nó thì khi không mày len cái con đĩ chó mẹ mày vào làm cho nó thành độc ác hơn, thành con hồ ly, con thần đanh đỏ mỏ để nó hại nước, làm khổ dân. Tao trù cho cái Đảng trộm cướp mổ lòi con mắt thằng cha, con mẹ mày ra, cho nó xé xác cái con đĩ thối mụ nội nhà mày ra … mày chui vào Đảng của tao thì thằng cha con mẹ mày thành con cú con cáo, ỉa vãi vào bàn thờ ông bà ông vải nhà mày nghe chửa … Cha tiên nhân cái bọn làm cho dân tao khổ, làm cho nước tao điêu linh, làm cho biển tao mất, làm cho phụ nữ nước tao phải bán trôn nuôi những cái mồm toác hoác nhà chúng mày nhá… Rồi ra, nhà chúng mày, những đứa len lỏi vào Đảng, vào nhà nước để làm bậy sẽ chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, đẻ bàn chân ra trước, đẻ đầu bước ra sau, đẻ sót nhau, đẻ chết mau, chết sớm, chết trẻ, đẻ ngang cả họ nhà mày nhá…Cha tiên nhân bố nhà cái thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, cầm cờ đỏ đứng đầu làng đưa cái thằng chó đẻ ra cha, ra bố nhà mày vào trong cái nhà ỉa ở Ba Đình mà thờ cúng bái lạy xì xụp con chó dại ỉa đường rồi lại hốt lên mà ăn với nhau. Có khôn hồn thì ra mặt cho ông đái vào mặt, ỉa vào mồm nhà chúng mày không thì tao đào mồ quật mả cha, mả mẹ nhà bọn xấu chúng mày lên, đào cả cái con đĩ tổ mẹ nhà mày, luôn cả cao tằng tổ khảo, thúc bá đệ huynh, cô dì tỉ muội bọn xấu nhà mày nhá. Hôm nay tao chửi một lần, ngày mai tao chửi hai lần, tao còn chửi cho mày cuồng quá hóa điên, tao thì chửi liên miên không ngừng … tao thì chửi mãi, chửi hoài, cho cả lò nhà may đinh chân đinh tay, chết trùng tang, trúng tháng , từ đứa bạc đầu cho đến đứa tập đi, đứa ấy khiêng ra, đứa kia nằm xuống, đi sông đắm đò, đi bộ xe cán … Cả nhà mày banh lỗ tai, vạch lỗ nhĩ ra mà nghe ông chửi cha cả họ, cả làng nhà mày, ông thì quăng cứt vào bài vị cả họ nhà mày, ông thì đào mả tam tứ đại nhà mày lên ông thì khai quật bật săng thằng tứ đại, lục đại nhà mày, cái thứ chết đâm chết ngập chuồng xí, cả họ nhà mày thác xuống âm phủ thì quỷ sứ thần linh rút ruột cả lũ nhà mày ra, cho ma quĩ ngồi đái lên đầu cái con mả mẹ mày cho cả lò nhà mày không ngóc đầu lên được. Ông vứt cả nhà mày xuống ao cho cá nó rỉa, ông vớt lên bờ cho chó nó liếm, mày ngủ giường, giường sập, mày ngủ võng, võng đứt, mày nằm mơ thấy ma thì ma nó móc mắt mày ra, mày tắm trong thau, mày chết chìm trong chậu , mày đi ra đường xe bò cán mày bẹp đầu, mày uống ngụm nước thì mày nhổ ra máu, máu đỏ phọt ra đằng mũi, máu trắng ộc ra lỗ tai, mày ăn miếng rau, mày nôn ra miếng thịt, tóc tai mày rụng sạch, tao quấn lại làm cái chổi tao quét cái cầu xí cho chó nhà tao nghe chửa hỡi những thằng xấu mà chủ tịch Trương Tấn Sang bảo là len lỏi vào Đảng để phá Đảng tanh banh ra nhá…"
Nhưng ai là những đứa "len lỏi" được vào Đảng và chính phủ từ suốt mấy chục năm Đảng và nhà nước cầm quyền ở Hà Nội nếu không là bọn chó đẻ với nhau?
Vậy thì cứ chửi mặc dù biết chẳng có thằng chó nào dám ló mặt ra. Chúng nó gọi nhau là X., hay Y., hay Z. cả mà.
Có thằng chó đẻ còn vô liêm sỉ đến độ kêu gọi người khác "tự trọng" đừng tham nhũng nữa thì mong gì chúng nó lôi nhau ra tố nhau tham nhũng và làm bậy?
Mà nhất là chúng nó có biết xấu đâu mà ra mặt. Và có ra mặt thì cũng huề chứ có sao đâu.
Mả cha con đĩ mẹ mấy thằng chó dại ở Hà Nội!

Ngày 24 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Quyền tự do ngôn luận, một trong những quyền được Tu Chính Án số 1 của Hiến Pháp Mỹ đảm bảo, như vậy là vẫn còn nguyên với quyết định của tòa Santa Clara hôm tuần trước.
Richard Tyson Dillon 25 tuổi, người ở Menlo Park, một thị trấn ở California, nếu không nhờ Tu Chính Án số 1, có thể bị tù 1 năm và bị phạt tiền tới 1 ngàn Mỹ kim về việc làm của anh.
Toà quyết định miễn tố người thanh niên này và tuyên bố việc làm của Richard Dillon được Hiến Pháp Hoa kỳ bảo đảm. Cái gọi là tội của Richard Tyson Dillon, theo đơn khỏi tố của cảnh sát Palo Alto, là can thiệp vào việc làm của cảnh sát một cách cố tình và ác ý khi chọc và làm cho một con chó của cảnh sát bị kích động trong khi nó đang thi hành công vụ.
Nội vụ xẩy ra hôm  Dillon cùng người bạn đi trên 1 con đường ở Palo Alto và trông thấy mấy cảnh sát viên đứng cạnh xe tuần của họ.
Theo luật sư của Dillon thì con chó cảnh sát trong xe lúc ấy đang hướng về mấy người bộ hành sủa nhắng lên. Dillon thấy trái tai gai mắt quá, bèn sủa lại con chó cảnh sát có một tiếng thân thiện, nguyên văn: a single friendly bark.
Cảnh sát liền bắt giữ Dillon và đưa người thanh niên này ra tòa.
Cảnh sát đề quyết rằng Dillon đã chọc cho con chó điên lên, sủa ủng oẳng, khiến nó không làm việc được. Luật sư của Dillon thì nói rằng bộ ở Mỹ người ta không còn được sủa nữa hay sao. Sủa cũng là cách bầy tỏ tư tưởng của người dân Mỹ chứ.
Cảnh sát nói rằng chuyện sủa thì không phạm luật. Nhưng nếu sủa mà làm cho con chó bị kích động, không làm được việc nữa thì đó là chuyện khác. Luật sư của Dillon nói rằng lúc xẩy ra nội vụ thì con chó cảnh sát đang ngồi chơi, sủa bậy bạ chứ không hề đang thi hành công vụ.
Nhưng tuần qua, khi ra tòa, ông toà tuyên bố tha bổng vì ông tin chắc không một bồi thẩm đoàn nào sẽ kết tội Dillon.
Cảnh sát đã làm một việc hết sức nhảm nhí, vừa mất thì giờ vừa tốn tiền cho thành phố. Dillon hiển nhiên là chỉ muốn nói phải quấy với con chó vài câu, và vì nói tiếng người chó không hiểu nên phải nói tiếng chó. Chó và người có thể bất đồng, to tiếng với nhau chứ có gì là tội với lỗi.
Mà những điều Dillon nói với con chó thì cũng chỉ là những điều thường ngày người ta vẫn nói. Có gì là xúc phạm đến danh dự và uy tín của chó đâu.
Thí dụ Dillon có thể nói vọng vào trong xe tuần của cảnh sát với cậu chó đang ngồi chồm chỗm ở trong như thế này:
Ðồ chó … đồ chó đẻ … Thế nào cũng có bữa ông kiếm mớ lá thúi địt về ông ướp mày… Ông ghét mày nên ông không thèm gọi là lá mơ hiểu không … Ông còn mua riềng nữa cho mày khỏi phải khóc đứng khóc ngồi: bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng nữa. Ông còn một vườn trồng húng sau nhà ông chờ mày nghe con … Ðồ chó đẻ … you son of a bitch you know … Ông chưa đớp được mày thì ông sang Ðại Hàn ông đớp đồng loại mày cho bõ ghét … Sủa đi chó …
Nhưng như thế thì đã sao? Nhục mạ - defamation - ở chỗ nào? Bộ chó cảnh sát không phải là chó sao? Bộ má nó không phải là chó sao? Chứ sao lại gọi là … chó má? Con của chó má thì là chó đẻ chứ còn sai nỗi gì nữa đây?
Cảnh sát Palo Alto bộ hết việc làm rồi hay sao?

Ngày 25 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Tuần trước tôi vừa mua cuốn lịch mới với 12 bức ảnh chụp những cầu tiêu kiểu xưa ở vùng quê nước Mỹ, thì hôm qua tôi đọc được một bài báo trên tờ VN Express tức là tờ Việt Nam Tin Nhanh, tờ báo điện tử được coi là có nhiều độc giả xem nhất với bài viết về việc sửa sang, đại tu (?) lại xác Hồ Chí Minh.
Hai chuyện này mới nghe có vẻ như không dính dáng gì đến nhau nhưng sự thật là có, rất dính dáng tới nhau.
Tờ báo cho biết lăng Hồ Chí Minh đã đóng cửa từ đầu tháng 9 cho đến ngày 9 tháng 11 tới đây mới mở cửa trở lại cho mấy thằng điên, cho mấy con đĩ dại xếp hàng vào thăm. Có đứa ngu xuẩn còn về Mỹ viết bài ca ngợi xác của Hồ đẹp trai hơn bác Mao nữa mới là thối um.
Thực ra Hà Nội đưa cái xác ấy đi "tắm" ở Nga.
Xem những bức ảnh "tắm" cho Lenin thì chắc xác Hồ Chí Minh cũng đang trong tiến trình tắm rửa, chỉnh trang cái nhan sắc tàn phai phát gớm đó.
Trong những hình chụp người ta được xem, quần áo cậu Lenin bị lột hết, bụng mổ banh, bộ đồ lòng đã được lấy ra quăng đi, hai tay buông xuôi, nằm tênh hênh bên bể hóa chất, khu vực chiến lược được che lại bằng tấm khăn khiến bọn thờ cúng không thấy được đồ nghề của cậu. Thực ra, cậu chết vì bị giang mai nên có mở ra cho thấy thì cũng tan nát hết cha nó rồi còn gì mà coi. Khuôn mặt cậu trắng bệch, mắt nhắm, tóc tai dính bết vào trán.
Xác Hồ Chí Minh chắc cũng trải qua tiến trình tắm rửa như vậy. Theo tiết lộ của Lý Chí Tuy, y sĩ riêng của Mao Trạch Đông thì mũi của Hồ Chí Minh bị mục và được đắp lại bằng sáp. Tai của họ Hồ cũng bị bong ra, phải dán lại. Lý Chí Tuy biết được các chi tiết này vì khi Mao chết, Bắc Kinh quyết định ướp xác của Mao nên phải qua Việt Nam để hỏi thăm nhà cầm quyền Hà Nội về cách ướp xác. Lý do là vì lúc ấy, Bắc kinh và Mạc Tư Khoa không còn thắm thiết, mặn mà với nhau nữa nên không thể đi hỏi các chuyên viên ướp xác của Nga. Các chi tiết về mũi và tai của Hồ Chí Minh đã được Hà Nội tiết lộ cho họ Lý và được viết lại trong hồi ký của ông ta.
Nay thì nó, cái xác đó đang được "mượn mầu chiêu tập" để sẽ lại đem về nước bầy ở Ba Đình.
Cái xác của Hồ Chí Minh cũng lắm truân chuyên. Khi Hoa kỳ còn oanh tạc miền Bắc, xác của họ Hồ cũng phải di tản và phải giữ ở những nơi với các điều kiện không lý tưởng lắm vì thế, xác cũng bị hư hao ít nhiều. Hữu hình tất hữu hoại. Cái xác được ướp gần nửa thế kỷ, dẫu cho được giữ gìn kỹ cách mấy cũng không có thể còn ở trong tình trạng tốt đẹp mãi được. Mỗi năm phải đem đi Nga tắm rửa bằng hóa chất để giữ cho khỏi khô quắt lại, tốn kém không phải là ít.
Bọn đàn em của Hồ Chí Minh phải ướp cái xác đó để dùng nó như một chiêu bài cho chúng đứng đằng sau chứ chúng nào có yêu thương quái gì nó. Bài báo trên tờ báo điện tử Việt Nam Tin Nhanh hai tuần trước cho biết các chuyên gia của Nga và Việt Nam lại lần nữa khẳng định rằng phải "bảo quản" kỹ cái xác của họ Hồ để có thể giữ nó mãi mãi.
Việc ướp xác hoàn toàn đi ngược lại với điều căn dặn Hồ Chí Minh đã viết xuống. Hồ Chí Minh muốn được hỏa táng, chia làm mấy phần, một phần cho miền Nam đợi ngày thống nhất sẽ mang vào Nam trải tro.
Cái xác nằm ở Ba Đình đã mấy chục năm. Càng ngày việc "bảo quản" càng khó khăn chắc sẽ không thể giữ được lâu nữa. Mỗi năm đóng cửa mất hai tháng khiến bọn đười ươi không có chỗ vào coi chơi. Họ Hồ nằm ở đó mà cứ lôi ra lôi vào, lột hết quần áo ra ngâm trong thùng hóa chất trông nản vô cùng. Lúc đầu thì bà ba đen, dép lốp ô tô, khăn rằn. Sau khi Mặt Trận Giải Phông bị dẹp, bọn đàn em dẹp bà ba, khăn rằn, cho các xác mặc kaki.
Sáng đem ra, tối cất đi. Các chị vào thăm tỏ lòng tôn kính lãnh tụ nhưng luật thơ lục bát thì không thể bẻ queo đi được nên mới có hai câu:
Vào thăm lăng Bác âm u
Các chị cá bộ ngả mu ra chào
Ngả ra như vậy nên cái xác ấy làm sao mà nằm nguyên cho được. Hay tại thế mà chị phụ nữ ấm ớ nọ mới nhẩy cẫng lên, khen nhặng xị là Hồ Chí Minh … đẹp trai hơn Mao Trạch Đông.
Đọc tin thấy lăng Hồ Chí Minh phải đóng cửa trong hai tháng thì người ta thấy cũng chẳng chết thằng Việt Cộng nào. Chỉ có cái lăng ở nhà mà không dùng được thì khốn khổ đời trai mà thôi. Nên nhà tôi phải có hai cái lăng là như thế.
Mua cuốn lịch treo lên vách lại có thêm được 12 cái khác nên càng không sợ gì hết trơn hết trọi. Đóng cửa cái chuồng xí ở Ba Đình thêm vài tháng nữa cũng chẳng sao cả là vậy.

Ngày 26 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Thỉnh thoảng tôi lại thấy trên đường phố ở đây cái bumper sticker với hàng chữ, "AS A MATTER OF FACT, I DO OWN THE ROADS!"
Lúc đầu tôi không hiểu người dán cái sticker ấy lên cản xe định nói gì. Khi không tự nhiên đi phân bua, giải thích, "chia sẻ" (?) với mọi người: Sự thật thì tôi quả tình làm chủ, sở hữu những con đường này!"
Nhưng một hôm, đang lái xe, tôi bị một người qua mặt từ bên phải, không thèm đèn hiệu gì hết, và rồi ngay sau đó, xe ông ta đi chậm hẳn lại. Tôi bỗng muốn vượt lên, hét vào mặt ông ta rằng bộ ông tưởng ông là chủ nhân của đường phố hay sao mà ông lái xe mất dậy như thế hở…
Nhưng cũng ngay lúc ấy, tôi hiểu lý do tại sao người chiếc xe dán cái bumper sticker đó lên cản xe của ông ta.
Ông ta lái xe đúng như tôi và những người lái xe khác trên đường nghĩ về ông ta. Ông ta lái xe rất là khốn nạn, mất dậy và … vô nhân đạo. Ông ta tưởng đường phố, xa lộ là của nhà ông ta, như thể bố ông ta gánh đá, đào đường làm ra những con đường ấy, và do đó, ông mới nghĩ là đường xá mà mọi người đang sử dụng là của chìm, của nổi nhà ông không bằng.
Và vì vậy, ông toàn quyền lái xe một cách mất dậy như thế, không lý gì đến những người lái xe khác nữa.
Thực ra, cũng còn có những người khác cũng tưởng cái này, cái kia ngoài đường đều là của họ cả. Cuối tuần trước, tôi lại gặp thêm một người như thế khi đến dự một buổi ra mắt sách. Tôi đến không muộn, vừa vặn lúc một diễn giả bắt đầu câu chuyện. Căn phòng không lớn lắm đã đầy người, một số phải đứng ở phía cuối. Tôi và người bạn không tìm được chỗ ngồi nên phải đứng sát vào bên tường, mãi sau mới kéo được hai chiếc ghế trong đống ghế dựng sát tường để ngồi xuống, vừa ngồi vừa sợ làm cản trở lối đi của người khác. Ở hàng ghế bên cạnh đó, tôi thấy có một chiếc ghế trống nên định nhắc cho người bạn lách vào ngồi cho đỡ mỏi chân. Nhưng nhìn kỹ hơn thì tôi thấy trên ghế đó đã có một chiếc mũ mầu xám. Như thế, chắc chiếc ghế ấy đã có người. Có thể người ngồi ở chiếc ghế đó đi vào toilet, hay đi mua sách ở cuối phòng rồi không tiện trở về chỗ chăng. Nhưng diễn giả đầu tiên đã xong phần phát biểu của ông. Chiếc baseball cap ấy vẫn ở nguyên trên ghế. Chiếc ghế vẫn không có người ngồi. Trên nó chỉ có chiếc mũ mầu xám. Tác giả cuốn sách lên bục nói chuyện về cuốn sách đã được một lúc, nhưng tôi vẫn không thấy chiếc ghế có người ngồi. Và vì nó ở đầu hàng ghế nên tôi nghĩ người đàn ông ngồi cạnh là chủ của cái mũ. Và do đó, là … chủ luôn cả cái ghế còn trống không có ai ngồi. Người bạn tôi vẫn phải ngồi nép ở cạnh tường. Chúng tôi cứ phải co chân lại, nghiêng người qua một bên mỗi khi có người đi qua. Bất tiện hết sức.
Người đàn ông ngồi ở ghế bên cạnh chắc chắn phải biết khách đến dự buổi ra mắt rất đông, nhiều người phải đứng ở cuối phòng, vì ông ta có quay đầu lại để nhìn vài ba người ở phía sau ông khi những người này đặt câu hỏi với tác giả cuốn sách. Nhưng ông vẫn thảnh thơi ngồi bên chiếc ghế mà ông nghĩ là của ông mang tới phòng họp. Ông tiếp tục để chiếc mũ trên đó để tay ông khỏi bận bịu với nó cho … khỏe cái người. Trông ông không đến nỗi yếu rớt để không cầm nổi cái mũ. Ông cũng không cầm gì trong tay để nói là ông phải để chiếc mũ lê chiếc ghế bên cạnh và do đó, phải từ chối một người trong số cử tọa đang phải đứng mỏi chân ở phía cuối phòng.
Chúng tôi … thèm cái ghế không có ai ngồi đó muốn … chết. Chúng tôi thèm nó như những người "lạ" thèm những vùng đất mầu mỡ của Việt Nam vậy. Ông vẫn ngôi yên sau mấy lần quay cổ ngó lại phía sau như tôi nói ở trên. Đến lúc đó thì tôi muốn leo qua mấy vị khán giả ngồi cạnh để đến nói với ông rằng trò thực dân chiếm đất không còn nữa trong thế kỷ 21 này. Trò đầu cơ tích trữ cũng không thể tiếp tục ở đây. Chỉ là trò vô ý thức, ích kỷ, bất lịch sự mà ông đang thực thi rất đầy đủ mà thôi.
Cuối cùng thì vào lúc diễn giả tạm ngưng một chút. Cánh cửa sổ cơ hội mở hé. Tôi len qua hàng ghế, và đến cạnh ông. Khi ông ngó lên, tôi hỏi ông về tình trạng chiếc ghế, không biết nó đã có chủ chưa và chủ nó là ai, có xuất trình được giấy chứng nhận chủ quyền không thì ông không thể làm công việc đó. Tôi ngoắc tay chỉ cho người bạn tiến lên chiếm lấy cổ thành Quảng Trị.
Tôi định cám ơn ông bằng cái giọng rất mỉa mai của một đứa nhỏ gần nhà khi nó cám ơn người dẫn con chó đến cửa nhà nó để làm bậy nhưng lại thôi.
Vì chưa chắc người đàn ông ấy hiểu được sự mỉa mai đó.
Ông ta cần một cái sticker dán trên chiếc ghế. Vì việc làm của ông thậm vô lý, lại vừa vô ý thức.

October 18, 2012

October 19, 2012


The Economist
 

Nguyen Chi Thien

Nguyen Chi Thien, a Vietnamese poet, died on October 2nd, aged 73


 
 
 
THE poems were under his shirt, 400 of them. The date was July 16th 1979, just two days—he noted it—after the anniversary of the fall of the Bastille. Freedom day. He ran through the gate of the British embassy in Hanoi, past the guard, demanding to see the ambassador. The guard couldn’t stop him. In the reception area, a few Vietnamese were sitting at a table. He fought them off, and crashed the table over. In a cloakroom nearby, an English girl was doing her hair; she dropped her comb in terror. The noise brought three Englishmen out, and he thrust his sheaf of poems at one of them. Then, calm again, he let himself be arrested.
Thus Nguyen Chi Thien sent his poems out of Communist Vietnam. They were published as “Flowers of Hell”, translated into half a dozen languages, and won the International Poetry Award in 1985. He heard of this, vaguely, in his various jails. In Hoa Lo, the “Hanoi Hilton”, one of his captors furiously waved a book in his face. To his delight, he saw it was his own.
He was not strong physically. He contracted TB as a boy; his parents had to sell their house to pay for his antibiotics. Then since 1960, on various pretexts—contesting the regime’s view of history, writing “irreverent” poetry—he had done several long spells in prison and labour camp. Hard rice and salt water had made him scrawny and thin-haired by his 40s. Internally, though, he was like steel: mind, heart, soul. Sheer determination had forced him through the British embassy that day. In fact, the more the regime hurt him, the more he thrived:
They exiled me to the heart of the jungle
Wishing to fertilise the manioc with my remains.
I turned into an expert hunter
And came out full of snake wisdom and rhino fierceness.

They sank me into the ocean
Wishing me to remain in the depths.
I became a deep sea diver
And came up covered with scintillating pearls.
 
The pearls were his poems. He kept his early efforts in a table-drawer where he found them later, the paper gnawed by cockroaches. The mind’s treasury was a safer place for them. It was also, for almost half his life, the only place he had. In prison he was allowed no pen, paper or books. He therefore memorised in the night quiet each one of his hundreds of poems, carefully revised it for several days, and mentally filed it away. If it didn’t work, he mentally deleted it. If it started to smell bad—like the one about Ho Chi Minh, Vietnam’s first Communist leader—he turned it into a stinging dart instead:
Let the hacks with their prostituted pens
Comb his beard, pat his head, caress his arse!
To hell with him!
 
Walking out to till the fields with his fellow prisoners, many of them poets too, he would recite his poems to them and they would respond with theirs. Some of them counted the beats on their fingers to remember. He never did; memory alone served him. It saved him, too. After 1979 he spent the best part of eight years in solitary, in stocks or shackles in the dark. His poems became sobs, wheezes, bloody tubercular coughs. But in his mind he still set out fishing, and watched dawn overtake the stars. He sniffed the jasmine and hot noodle soup on a night street in Hanoi. He remembered his sister Hao teaching him French at six—what a paradise the French occupation seemed, in retrospect!—and went swashbuckling again with d’Artagnan and his crew. That way, he kept alive.
Drinking with Li Bai
A favourite prison companion was Li Bai, the great poet of eighth-century China. He would sup wine with him from amber cups, loll on chaises longues, watch pretty maidens weaving silk under the willow trees and the peach blossoms falling. He would talk to the moon with him and get wildly, romantically drunk. There was a flavour here of his own careless youth, his teahouse years of girls and smoking. Both he and Li Bai had offended the emperor, mocked the education system, and been punished. But somehow the oppressions of the distant past seemed bearable. Not so the acts of Vietnam’s red demons, with their nauseating loudspeaker jingles about Happiness and Light.
Out of prison, Li Bai-like, he dealt in rice brandy for a while, and tried to sell bicycle spokes. He could not make a go of it. From 1995 he managed to get shelter in America. He lived humbly in Little Saigon in Orange County, California, lodging with fellow countrymen. Green tea and smoking remained his chief comforts. A flat cap or a fedora were his trademarks. He had nothing to share but his poems and his memories of fellow poets, whose cattle-trodden graves now dotted the hills around the labour camps. That, and his roaring hatred of the regime in his country, where his writings remained banned.
If people could see his heart, he had written back in 1964, during his first spell in prison, they would see it was an ancient pen and inkstand, gathering dust; or a poor roadside inn, offering only the comfort of an oil lamp. But it was also a paddy field waiting for the flood-rains of August,

So that it can overflow into a thousand waves,
White-crested ones that will sweep everything away!
 
NGUYỄN CHÍ THIỆN, SOLZHENITSYN VIỆT NAM
Tuần báo The Economist mới đây đã dành nguyên một trang báo để viết về Nguyễn Chí Thiện. Tờ báo này gọi ông là Solzhenitsyn Việt Nam ngay trên trang bìa số đề ngày 13-19 tháng 10 năm 2012. Sau đây là bản dịch Việt ngữ bài báo viết về ông Thiện.
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ Việt Nam qua đời ngày 2 tháng 10 hưởng thọ 73 tuổi.
Dấu trong ngực áo sơ mi của ông là 400 bài thơ ông viết trong những năm tù ngục. Ông nhớ rất rõ hôm đó là ngày 16 tháng 7 năm 1979, hai hôm sau ngày kỷ niệm phá ngục Bastille. Ngày tự do. Ông chạy thật nhanh vào tòa đại sứ Anh ở Hà Nội, qua mặt một người gác ở cổng, đòi gặp ông đại sứ. Người gác không ngăn được ông. Tại bàn tiếp khách, có mấy nhân viên người Việt đang ngồi. Ông xô những người này ra khi họ tìm cách chặn ông làm chiếc bàn đổ nghiêng. Trong phòng treo quần áo ở gần đó, một phụ nữ trẻ người Anh đang chải đầu, cô hoảng sợ đến nỗi làm rơi chiếc lược đang cầm trong tay. Tiếng động khiến ba người đàn ông Anh khác chạy ra. Ông dúi vào tay một trong ba người này xấp thơ của ông. Rồi ông lấy lại bình tĩnh và để yên cho công an bắt đem đi.
Và đó là chuyện ông gửi tập thơ ra khỏi Việt Nam. Ít lâu sau, ở ngoại quốc, tập thơ được in thành sách dưới tựa đề Hoa Địa Ngục và được dịch sang năm, sáu thứ tiếng. Tập thơ được trao giải thưởng của tổ chức Thi Ca Thế Giới năm 1985. Trong những nhà tù khác nhau nơi ông bị giam ông có mơ hồ nghe được chuyện này. Tại Hỏa Lò, một người coi tù đã giận giữ dí vào mặt ông một cuốn sách. Ông cảm thấy thú vị khi thấy cuốn sách đó chính là tập thơ của ông.
Về thể chất, ông không phải là người khỏe mạnh. Từ nhỏ ông đã bị lao. Gia đình ông đã phải bán nhà để lấy tiền thuốc men cho ông. Rồi kể từ năm 1960 trở đi, vì những tội khác nhau mà người ta gán ghép cho ông, như bất đồng với nhà nước về mấy vấn đề lịch sử, hay làm thơ chống nhà nước, ông bị tù nhiều lần trong những trại tù, những trại khổ sai. Chế độ ăn uống tồi tệ trong tù toàn cơm hẩm, nước muối đã khiến ông gầy tọp, tóc rụng rất nhiều khi mới ở tuổi 40. Nhưng bên trong, ông là một con người thép về đầu óc, trái tim và tâm hồn . Chính ý chí cương quyết đã khiến ông liều lĩnh chạy vào sứ quán Anh hôm ấy. Thực ra thì nhà cầm quyền càng hành hạ ông thì ông lại càng mạnh:
...Đảng đầy tôi trong rừng
Mong tôi xác bón từng gốc sắn
Tôi hóa thành người săn bắn
Và trở ra đầy ngọc rắn sừng tê
Đảng dìm tôi xuống bể
Mong tôi đáy nước chìm sâu
Tôi hóa thành người thơ lặn
Và nổi lên ngời sáng ngọc châu...
Những viên ngọc đó là thơ của ông. Ông cất những bài thơ ông viết thời trẻ tuổi trong chiếc ngăn kéo nơi bầy gián đã nhấm nát. Nhưng nơi an toàn nhất để cất giữ những bài thơ ông viết là trí óc của ông. Đó cũng là nơi trú ẩn bình yên duy nhất trong gần nửa cuộc đời của ông. Trong tù, ông không có giấy bút, sách vở. Vì thế nên trong những đêm dài yên ắng, ông đã nhập tâm ghi nhớ lại hàng trăm bài thơ ông viết. Ông sửa đi sửa lại chúng rồi cất vào trí nhớ. Nếu không thích, ông lại xóa đi, bỏ ra ngòai trí nhớ. Bài thơ nào bốc mùi, như bài thơ ông viết về Hồ Chí Minh, ông biến chúng thành chiếc phi tiêu phóng đi:
Mặc thây bọn văn sĩ cô đầu
Vuốt râu, xoa đầu, mơn trớn Bác
Thế rồi tôi đi làm việc khác
Kệ cha Bác !
Khi ra đồng lao động cùng với các bạn tù, trong số đó cũng có người làm thơ như ông, ông đọc cho họ nghe những bài thơ ông viết và những người bạn tù của ông đáp lại cũng bằng thơ. Có người phải đếm vần của những bài thơ trên đầu ngón tay để nhớ. Nhưng ông không làm thế vì trí nhớ của ông đã giúp ông làm việc đó. Và điều đó cũng đã cứu ông. Sau năm 1979, ông lại bị tù trở lại và bị biệt giam trong suốt gần hết 8 năm. Chân cùm, tay còng trong ngục tối. Thơ ông trở thành những tiếng khóc, tiếng thở khò khè, nức nở, tiếng ho lao thổ huyết. Nhưng trong trí, ông vẫn tưởng tượng ra cảnh ông đi câu, ngồi nhìn bình minh khỏa lấp đi những vì sao. Ông ngửi thấy mùi trà hoa nhài, mùi tô phở đêm trên những con đường Hà Nội. Ông nhớ tới người chị tên là Hảo đã dậy ông tiếng Pháp khi ông mới lên sáu. Nghĩ lại, ông thấy những năm thuộc địa Pháp lại chính là những năm thiên đàng hạnh phúc nhất. Thế là ông lại vung kiếm lên đường phiêu lưu cùng với d’Artagnan và những người bạn ngự lâm pháo thủ. Bằng cách đó, ông đã sống sót qua được những năm tù ngục.
Ông tìm được một người bạn tù, một nhà thơ lớn của đời Đường là Lý Bạch. Ông cùng với Lý Bạch nhâm nhi rượu đựng trong chén hổ phách, nằm dài trên trường kỷ, ngắm bầy tiên nữ múa lụa bên hàng liễu hay dưới những cánh hoa đào rơi rụng. Ông nói chuyện với mặt trăng cùng Lý Bạch rồi say sưa trong cơn điên lãng mạn. Cả ông lẫn Lý Bạch đều phạm tội khi quân, chế nhạo chế độ nên lâm cảnh tù đầy. Nhưng những cảnh áp bức đè nén của thời xa xưa dường như vẫn còn có thể chịu nổi. Trong khi những cái loa gào lên phát mửa về những hạnh phúc và ánh sáng thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Ra khỏi tù, hệt như Lý Bạch, ông đã phải đi bán rượu kiếm sống, có lúc phải làm nghề sửa xe đạp. Nhưng cũng không sống nổi. Kể từ năm 1995, ông được sang Mỹ tị nạn. Ông sống giản dị ở quận Cam chung nhà với mấy người bạn. Ông tìm được hạnh phúc an ủi bằng tách trà, điếu thuốc lá. Người ta nhớ ông với chiếc mũ lưỡi trai hay chiếc nón dạ đội trên đầu. Ông không có gì cho bạn bè ngoài những bài thơ và những kỷ niệm về những người bạn tù những năm tù đầy, nay đã chết, xác vùi trong những nấm mộ đầy vết chân trâu chân bò giẫm nát trên sườn đồi quanh các nhà tù. Đó, và những thù hận khôn nguôi về cái chế độ ở vùng đất mà nay vẫn còn cấm thơ văn của ông.
Năm 1964, trong lần đi tù đầu tiên, ông viết rằng nếu mọi người nhìn thấy tâm can của ông, thì người ta sẽ thấy một chiếc bút cũ và một lọ mực bám đầy bụi, hay một quán nghèo bên đường với một ngọn đèn dầu làm bầu bạn an ủi. Nhưng cũng có một ruộng lúa đang chờ cơn mưa rào tháng 8:
Để có thể trào dâng muôn đợt sóng
Và sóng kia những ngọn sóng bạc đầu
...

Ngày 15 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Hôm qua tôi ghé Barnes & Noble để đọc cọp mấy tờ báo, đi ngang qua chỗ bầy những cuốn lịch cho năm 2013 tôi mới nhớ nhà chưa có lịch mới. Đang định mua cuốn lịch có hình những chiếc xe cổ điển, chiếc Mercedes cánh hải âu, chiếc De Lorean vỏ thép, chiếc Triumph mui trần, chiếc Aston Martin như của James Bond ... về treo ở phòng làm việc cho bõ những ngày cơ cực thì tôi thấy cuốn lịch đó.
Tôi quyết định mua nó ngay.
Đó không phải là cuốn lịch lớn như cuốn lịch có hình những chiếc máy bay của năm nay mà tôi treo ở phòng làm việc khiến ai vào phòng trông thấy cũng trầm trồ khen ngợi người chủ lành mạnh, không thèm treo cuốn lịch phong cảnh núi đồi (?), khe lạch (?) của những năm trước nữa. Cuốn lịch này nhỏ hơn, treo vừa vào chỗ bên cạnh cái computer, lại khiến người đi ngoài đường không nhìn thấy bàn làm việc của tôi ở trong nhà.
Cuốn lịch tôi quyết định mua có hình chụp đủ bốn mùa xuân hạ thu đông. Có tháng là hình tuyết phủ ngập, lại có tháng lá vàng , có tháng cây cối trơ không lá, có tháng chụp cảnh xanh mướt của mùa xuân, có tháng mùa hạ nắng chói. Nhưng tất cả đều là những bức hình chụp những chiếc nhà cầu, những chiếc outhouses , những chiếc toilettes exterieures ở những nơi khác nhau của nước Mỹ, dấu tích còn sót lại của thời chưa có indoors plumbing, và cũng có thể ở những nơi hệ thống dẫn nước chưa chạy tới, chuyện hiếm có ở nước Mỹ.
Những cái nhà ngoài (outhouses) này không còn thấy bao nhiêu ở Hoa kỳ nên chúng mới được chụp để làm lịch. Mà không phải chỉ có một cuốn, mà tôi thấy ít nhất cũng là bốn năm kiểu khác nhau.
Như vậy, người Việt Nam nói "đi ngoài" thì người Mỹ chắc cũng nói như thế: go to the outhouse. Nhưng ngồi trong những cái outhouse đó thì không thể nào sướng bằng làm cái việc được xếp hạng thứ hai (thứ nhất quận công, thứ nhì ỉa đồng) hay thứ ba (thứ nhất là đỗ thám hoa, thứ hai lấy vợ, thứ ba ỉa đồng) của người Việt Nam được. Nên mua cuốn lịch về treo chỉ là để nhớ lại (tuy không trọn vẹn) một niềm lạc thú nay đã mất mà thôi.
Ở ngoài đồng sướng hơn nhiều. Gió mát hiu hiu thổi. Cây cỏ hoa lá ngát hương đồng nội. Vài ba ngọn cỏ gió đùa tạo những cảm giác không thể nào có được trên những chiếc bệ cầu. Tai nghe tiếng chim hót trong lùm cây, mắt thì nhìn theo những cánh bướm lượn bên bụi hoa thì có khác gì cảnh chăn trâu hạnh phúc trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư.
Nhưng sướng hơn lại là cảnh bên dưới sông nước hữu tình . Cá đâu đớp động dưới chân bèo như cảnh câu cá của Yên Đổ. Nhất là nếu hai chiếc cầu lại ở ngay bên cạnh nhau để hai người có thể cùng đi (?), cùng ngồi bên nhau bàn luận chuyện đời giữa những tiếng thở nặng nề của cả hai phía làm đứt đoạn những câu đối thoại.
Ngày ấy đâu rồi? Tìm lại làm sao được từ hơn mấy chục năm nay? Thôi thì đành mua cuốn lịch về treo tạm mà nhớ đến ngày xưa vậy.
Ở nhà thì lại đành cố thủ trong cái phòng nhỏ nhất trong nhà, tay cầm theo cái iPhone và tờ báo hay cuốn sách, điện thoại reo thì trả lời ngay, không phải vội vã vừa chạy vừa nhẩy ra trả lời điện thoại như ngày xưa nữa.
Bù lại, phía bên kia không thể nào biết được phía bên này đang làm gì, hay công việc chưa hoàn tất vì ... giấy tờ (?) chưa xong.
Cái kiến trúc quan trọng ấy lại không bao giờ được dành cho những tình cảm trân quý (?) nhất trong khi không có nó thì làm sao sống được!
Nên phải mang cuốn lịch chụp 12 chiếc outhouses về treo để ... yêu nó thêm một chút.
Cầu tiêu muôn năm! Cầu tiêu vạn tuế!
Hô to như vậy mà không thấy kỳ chút nào hết. Giầu sang phú quí như công nương Kate Middleton, đẹp não nùng như Cindy Crawford mà không có nó thì cũng khốn khổ làm sao sống mà ra ngoài điệu bộ mỹ miều cho được!

Ngày 16 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Hồi năm 1975, chỉ mấy hôm sau khi được đưa vào lớp học ở một trường tiểu học gần nhà, hai đứa con tôi đã học ngay được mấy câu tiếng Anh mà tôi ghét vô cùng.
Đó là những câu "So what?", "Who cares?", và một câu dài hơn là "I could not care less!"
Toàn là những câu để gây sự, thách đố, và đầy giọng bất cần tôi nghĩ là không thích hợp với tuổi tác còn rất nhỏ của chúng. Nhất là câu "I could not care less!"
Cả hai đều biết là tôi ghét những cách ăn nói như thế nên chỉ thỉnh thoảng nghe lén chúng nói chuyện với nhau, tôi mới nghe thấy chúng ăn nói như thế.
Vậy mà thoắt một cái đã mấy chục năm . Nhưng tự nhiên hôm nay, tôi lại thấy đó là những câu hay tuyệt. "So what?" nghĩa là rồi sao? "Who cares?" là ai mà thèm thắc mắc. "I could not care less!" là tôi không thể quan tâm ít hơn về chuyện ấy, nghĩa là tôi cóc cần, tôi không thèm nghe, không thèm biết, không thèm nói về chuyện đó.
Từ mấy tuần qua ở đây đang ồn lên chuyện người ca sĩ này về nước hát, người ca sĩ kia về nước hát. Bên chống cũng có, bên ủng hộ cũng có. Lập luận nào nghe cũng ... xuôi tai cả.
Phe chống thì nói tiếng hát ấy là của (?) chúng ta, không nên về hát cho chúng nó nghe. Về hát như vậy có khác gì nhổ nước miếng vào chính nghĩa của việc leo thuyền, bám trực thăng, liều mạng ngoài biển, bất chấp hải tặc, đói khát, chờ đợi mỏi mòn bao nhiêu ngày tháng, có khi vài ba năm trong các trại tị nạn để đến được Mỹ làm lại cuộc đời, để được sống trong tự do, dân chủ vân vân.
Phe đồng ý, ủng hộ việc tiếng hát ấy trở về thì cho rằng việc về hát ở trong nước của họ chỉ là việc làm để kiếm tiền vì trời đã chiều, những sợi dây thanh quản đã mỏi mệt, những bài hát cũ không còn được nhiều người nghe ở đây nữa nên họ phải trở về kiếm chác thêm được chút nào hay chút ấy trước khi quá muộn. Thầy già, con hát trẻ. Thầy thuốc thì kiếm người già, nhiều kinh nghiệm. Nghe hát thì thanh sắc càng trẻ càng tốt. Họ phải về. Cả hai thứ đều không còn bao nhiêu nữa. Nhiều người làm các công việc khác cũng về Việt Nam làm ăn có ai nói gì đâu. Chỉ là những vụ đi kiếm tiền mà thôi.
Chuyện về thì về, chỉ đừng có già đầu mà còn ngu xuẩn tuyên bố rằng nay đã sáng mắt ra, đã thấy được ánh sáng sau bao nhiêu năm sống mù lòa ở Mỹ. Cứ về nhưng không cần phải nói những câu lấy lòng mất tư cách, hèn hạ như thế. Cứ về, nhưng đừng quay lại cắn những người một thời từng sát cánh (sắt) với mình, thóa mạ những người đó để bênh vực cho chuyện đi về của mình như người đàn ông nọ, khi chết cũng không được bọn chó má cho gửi xác về quê cũ. Cứ về, lẳng lặng là hơn hết. Không nên nói gì.
Có nói gì thì cũng nên nhớ lúc bước chân đến xứ người sau chuyến đi thừa sống thiếu chết để tìm cuộc sống tự do, nay lại đâm đầu về cái nơi đã làm cho mình phải bỏ chạy.
Nhưng tại sao phải thắc mắc về chuyện về hay không về của họ? Họ chẳng là cái gì hết. Càng có ý kiến về chuyện về nước của họ, thì họ càng có ảo tưởng rằng họ là cái gì quan trọng lắm. Thật ra, họ chẳng là gì hết. Tầm thường và rất tầm thường là khác. Hãy nhìn con người thật, tư cách thật của họ, những việc họ làm trong những năm tháng họ ở đây thì thấy ngay.
Họ về thì thây kệ họ. Rồi sau đó, trở lại đây, thế nào họ cũng sẽ lại tuyên bố này nọ để lại tiếp tục tìm cách kiếm tiền ở cái xứ mà họ vừa lớn tiếng bỉ thử. Gọi họ là cắc ké thì cũng đúng. Đúng cả hai nghĩa. Cắc ké vì họ chẳng là cái quái gì hết. Cắc ké vì họ đổi mầu da soành soạch, cứ ở đây thì xanh, ở chỗ khác thì đỏ.
Đừng kỳ vọng họ sẽ làm như khôi nguyên Nobel Văn Chương Alexander Solzhynitsyn, người cương quyết chỉ trở về nước Nga sau khi Cộng sản tan rã . Hoặc như cây cello hay nhất thế giới Mstislav Rostropovich chỉ trở về Nga để trình diễn sau khi không còn đảng Cộng sản ở Nga nữa. Cả hai đều đã về Nga sau khi chế độ Cộng sản vô phương cứu chữa.
Những thứ ca hát mà Đỗ Mục nhắc trong bài tứ tuyệt Bạc Tần Hoài thì không bao giờ đến được gần gót chân của những người này.
Thực ra, nghe họ về làm cái này, cái nọ, câu phát biểu hay nhất lại chính là mấy câu từ miệng của hai đứa con tôi năm nào: Who cares? So what? I could not care less!
Ai thèm thắc mắc, để ý làm chi chuyện họ làm. Mà họ làm thế rồi thì sao?
Chẳng sao hết.
Nhạc sĩ Hoàng Nhật Thông (Trần Vũ Anh Bình) và Nhạc sĩ Việt Khang (phải). (Hình: Tuổi Trẻ Yêu Nước)
Chỉ biết khi họ về hát, và chắc chắn sẽ lảm nhảm những câu ngợi ca "tự do nghệ thuật" ở trong nước, thì hai nhà viết nhạc Việt Khang và Hoàng Nhật Thông sẽ vẫn còn ngồi tù tiếp.
Chỉ vì nhạc.

Ngày 17 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
"Thà làm một Socrates khốn khổ còn hơn làm một con heo tự mãn". Người nào nói câu này, có lúc tôi nghĩ, chưa bao giờ là con heo. Vì chưa bao giờ là con heo nên làm sao dám nói là heo cũng sung sướng, hạnh phúc đến độ tự mãn được?
Không. Heo không có gì để tự mãn. Từ khi ra đời đến lúc được đưa đến lò heo để biến thành... thịt heo, heo không bao giờ sung sướng và hạnh phúc. Ðời sống chỉ xoay quanh những cái máng chứa thực phẩm, ăn cho béo để chờ ngày tới lò sát sinh, có gì đâu để mà tự mãn, sung sướng với hạnh phúc của mình để bị so sánh với Socrates?
Socrates thì khốn khổ thật. Khốn khổ đến nỗi phải trở thành triết gia như ông đã có lần nói: "là đàn ông nên lấy vợ, may ra thì hạnh phúc một đời, nếu không thì cũng thành triết gia". Socrates trở thành triết gia, cuối cùng uống thuốc độc tự vẫn.
Nhưng có thể cũng có những con heo sung sướng và hạnh phúc thật. Ở Westphalia thuộc nước Ðức, nơi có đến 6 triệu con heo được nuôi trong các trại heo, mới đây, nhà cầm quyền đòi các trại chủ phải nuôi những con heo này một cách nhân đạo hơn.
Thế nào là nhân đạo? Theo khuyến cáo của nhà chức trách, mỗi con heo nuôi trong trại phải có ít nhất 1 mét vuông để xoay xở cho dễ, và mỗi con phải được cung cấp một tấm nệm nhỏ để ngả lưng khi đi ngủ. Vào giờ chơi, heo phải có đồ chơi để giải trí cho đỡ buồn. Mỗi ngày heo phải được hưởng 8 tiếng đồng hồ ánh sáng mặt trời, bất kể mùa đông hay mùa hạ. Cuối cùng, mỗi con phải được người nuôi ngó nhìn vào tận mặt ít nhất 20 giây đồng hồ.
Không biết được đối xử như thế, món thịt heo muối hay súc xích mà vùng Bắc sông Rhine-Westphalia sản xuất khoảng hơn 300 loại có ngon hơn thịt heo nuôi theo lối thông thường không.
Nếu được đối xử như vậy thì heo quả có hạnh phúc hơn Socrates thật. Riêng khoản mặt nhìn mặt và tay trong tay không nói một câu trong 20 giây, heo cũng sung sướng hạnh phúc hơn rất nhiều đồng loại với ông triết gia người Hy Lạp rồi. Huống chi lại được dăm ba câu vỗ về đại khái "Heo đấy à? Có mệt không heo? Hôm nay đi làm có gì vui không heo? Ở sở heo có bị mấy đồng nghiệp cạnh tranh nhan sắc làm kinh hoàng không? Heo có bị đứa nào chê là ngu như heo không? Heo có thích làm trò con heo không? Heo thích làm heo thịt hay heo nọc? Heo muốn sau này lớn lên làm bacon hay ba chỉ? Heo không ưa ba rọi sao? Hay muốn làm dồi tràng, dồi tiết, dồi mỡ? Heo có thích vào nồi cháo lòng để bà phó tổng thống gánh đi bán cho ông khỏi phải cúi đầu như bà đã nói cách đây vài chục năm không? Không à? Cũng không thích bún bò Huế vì sợ ớt hay sao? Thôi được, hủ tiếu heo vậy nhé. Chịu khó hay ăn chóng lớn nhé, đừng có làm lợn cấn ăn cám tốn nhé. Có uống cà phê không, để em (?) pha cho. Hay uống trà nghe cục cưng heo? Ở Macy's hôm nay có sale đặc biệt. Ngay cạnh lại là St. John với lại Prada, Louis Vuitton heo dẫn em đi shop nhé..."
Ðược cho ăn, cho ngủ tử tế, giờ chơi được quăng cho mấy món đồ chơi, mỗi ngày được vỗ về 20 giây với bằng ấy lời an ủi thì hơn là làm ông Socrates với mấy tư tưởng triết lý vớ vẩn trong lúc đàm đạo với môn sinh là Plato nhiều.
Vậy thì làm ông Socrates khốn khổ mà làm gì? Làm heo tự mãn sướng hơn nhiều chứ. Cho dù là chỉ được một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn nếu được như đôi câu đối của cụ Tam Nguyên tặng ông hàng thịt:
Tứ thời bát tiết canh chung thuỷ
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang

Thì còn gì hơn được nữa?
Hơn đứt chuyện làm Socrates suốt năm canh nhiều!

Ngày 18 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Cuộc hội nghị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 6, khóa 11 đã kết thúc hôm 15 tháng 10, và theo nhiều ý kiến thì đã không có gì thay đổi liên quan đến ông Vũ Như Cẩn.
Thực ra thì đã có một thay đổi quan trọng.
Các quan sát viên theo dõi cuộc hội nghị từ trước khi hội nghị khai diễn đã đưa ra những tiên đoán về chiếc ghế thủ tướng có thể không còn mấy chắc chắn của Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng người đàn ông từng làm nghề chích dạo, tốt nghiệp cử nhân luật ở trong rừng với không biết bao nhiêu là sai lầm, vẫn tiếp tục được cho ngồi nguyên ở chỗ cũ. Nỗ lực chống tham nhũng của y đã chỉ đem lại kết quả là tham nhũng gia tăng đến mức độ chóng mặt như nhiều tổ chức thế giới đã phải nhìn nhận và xếp Việt Nam vào hàng ngũ những nước tham nhũng nhất thế giới. Một số quốc gia cũng như công ty nước ngoài đã dẹp bỏ một số kế hoạch đầu tư của họ và rút khỏi Việt Nam vì theo họ, tham nhũng càng ngày càng lớn mạnh, kết quả của chính nỗ lực chống tham nhũng của Nguyễn Tấn Dũng.
Người ta kết luận cuộc hội nghị không đem lại điều gì mới.
Nhưng hôm qua, 17 tháng 10, Trương Tấn Sang, người đang giữ chức vụ chủ tịch nước, tại một cuộc tiếp xúc với báo chí ở Sài Gòn đã gọi một người cũng trong băng đảng của y bằng một lối gọi khá kỳ lạ. Tuy thế, người nghe thì ai cũng biết người mà Trương Tấn Sang nhắc đến là ai mặc dù không gọi đích danh.
Người đó là Nguyễn Tấn Dũng.
Trương Tấn Sang đã gọi Nguyễn Tấn Dũng không bằng tên, mà là "đồng chí X."
Danh xưng "đồng chí" chỉ có từ khi có những người Cộng sản. Cộng sản gọi nhau là "đồng chí" là đúng. Và chỉ có Cộng sản mới gọi nhau như thế. Không phải ai muốn gọi chúng là "đồng chí" cũng được. Đã không ít người sau năm 1975, vì muốn kết thân, muốn lại gần với bọn trong rừng vừa ra đã gọi chúng là "đồng chí" thì liền bị chúng chửi xối xả, nhất định không cho những người đó gọi chúng là "đồng chí".
Nghĩa là phải là đồng bọn, cùng lập trường, tư tưởng với chúng, cùng một phường chó đẻ như chúng mới được gọi chúng là "đồng chí" cũng như được chúng gọi lại là "đồng chí."
Trương Tấn Sang gọi Nguyễn Tấn Dũng là "đồng chí" mặc dù tên chích dạo này đã phạm phải rất nhiều lỗi lầm trong mấy năm qua gây ra những thảm họa cho kinh tế Việt Nam qua việc bao che cho đồng bọn, con cái vô tài bất tướng chỉ giỏi trò tham nhũng. Những vụ như Vinashin, cùng với những kế hoạch đầu tư, xây cất hoàn toàn thất bại thua lỗ kinh hòang đều là do Nguyễn Tấn Dũng thực hiện hay bao che cho đàn em.
Gọi Nguyễn Tấn Dũng, một người đầy tội lỗi, tham nhũng, bè cánh như thế là "đồng chí" thì Trương Tấn Sang là người như thế nào?
Tục ngữ Pháp có câu "Ceux qui se ressemblent s’assemblent" hay một câu khác "Les oiseaux de même plumage s’assemblent sur même rivage" cũng như câu tục ngữ Anh "Birds of the same feather flock together", bọn trộm cướp, lưu manh thì quần tụ lại với nhau.
Trương Tấn Sang gọi Nguyễn Tấn Dũng là "đồng chí" thì chính Trương Tấn Sang cũng là cùng một thứ tham nhũng khốn nạn như Nguyễn Tấn Dũng. Chúng nó phải bao che cho nhau, bảo vệ nhau vì chúng ăn chưa đủ no, mặc dù tiền bạc của chúng đã lên tới mức cả mấy trăm triệu là ít.
Sang gọi Dũng là X., không gọi đích danh cũng là một cái lối gọi tên gần đây ở Việt Nam. Không gọi Nguyễn Tấn Dũng bằng tên thực của Dũng mà gọi là X. thì có khác gì không gọi Tầu là Tầu mà gọi là "Lạ" thì cũng vậy. Chính danh là việc phải làm. Không chính danh là không tôn ti trật tự, trên dưới lộn xộn thì làm sao mà cai trị được. Cái bình đựng rượu sau khi có những đổi thay về hình dáng thì phải có cái tên mới và khác cho nó. Gọi nó bằng cái tên cũ là không được. Sách Nho giáo đã nêu thí dụ đó. Không gọi tầu chiến của Trung quốc là tầu Trung quốc mà gọi là "tầu lạ" thì bảo vệ chủ quyền ở biển Đông thế nào được. Không gọi Nguyễn Tấn Dũng bằng tên thì làm sao có biện pháp với nó cho được.
"Đồng chí X." cách gọi đó là thừa nhận mình cũng như nó, một phường tham nhũng với nhau. Gọi nó là X. là còn sợ nó lắm. Như thế thì làm sao dám thay đổi.
Mà thay đổi làm gì! Vỡ cha nó cái tập đòan tham nhũng khốn nạn và chó đẻ đó thì làm sao các đồng chí khác sống được.
Cuộc hội nghị vừa qua nhìn giống hệt như cuộc họp của lũ súc vật ở đoạn cuối cuốn The Animal Farm của George Orwell. Khác chăng là các đồng chí chỉ là một bọn đồng chó với nhau mà thôi!

Ngày 19 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Một người bạn của tôi, khoảng mười năm trước, đã dùng một danh từ có từ lâu -- cái giấy phạt -- để gọi những tấm thiệp báo hỉ, những thiệp mời đi dự đám cưới, mà chúng ta nhận, trung bình mỗi tháng từ 2 đến 3 cái, tùy theo mức độ quảng giao của chúng ta.
Tiền đóng cho những cái giấy phạt này không do một bộ luật nào qui định như những cái giấy phạt xe thỉnh thoảng chúng ta nhận được, mà do bàn tay ký những tấm ngân phiếu bỏ trong phong bì trước khi đến địa điểm đãi tiệc, quyết định.
Lúc đầu, trong mấy năm sau chuyến di tản, nó là 20, rồi thành 25 Mỹ kim. Thoắt một cái, con số 25 trở thành... không được. Bàn tay ký tấm ngân phiếu thấy chợt thấy chỗ bạn bè thân tình, sao lại chỉ có thế!
Nó nhẩy một cái thành 50. Không thể là 30, hay 35, hay 40, hay 45 được. Nó tăng gấp đôi. Tất cả những con số khác ở giữa 25 và 50 đều không được. Kỳ quá. Phải là 50.
Giá biểu (?) 50 ở với chúng ta được chừng vài năm thì bàn tay viết những tấm check bắt đầu lại thấy 50 là con số kỳ kỳ. Không còn có thể là 50 được nữa. Ngó bữa tiệc cưới, nhìn lại con số 50 thì thấy ít quá. Tội nghiệp đôi trẻ (?) lỗ nặng mất. Phải tăng lên cho cả hai đi trăng mật một cái chứ.
Thế là nó thành 100.
Ðó là khoảng ba, bốn năm trước. Bây giờ đặt bút xuống viết con số 100 đã bắt đầu thấy hơi ngượng. Chú, bác, cô, dì, anh, chị... gì mà kỳ thế. Ai cũng mở cửa hàng bán... kẹo cả là nghĩa làm sao!
Nhưng sau con số 100 là gì? Không ai viết những con số lẻ bao giờ. Cứ phải gấp đôi lên mới được. Và từ khoảng hơn một năm nay, con số 200 là con số thoải mái nhất để nộp phạt.
Với con số 200 đó, sau đám cưới, tấm thiệp cám ơn của đôi trẻ gửi đến, nhìn qua nét chữ cũng thấy niềm hân hoan của chúng.
Nhưng với những người mà cái gì cũng có, thì cái giấy phạt phải là bao nhiêu? May quá, ít người trong chúng ta quen những thứ như Bloomingdale, Dupont, Rockefeller... để phải lo những chuyện như vậy.
Nhưng tưởng tượng mấy cái tên này đến làm quen chúng ta, kiểu thấy người sang (là chúng ta) bắt quàng làm họ, rồi bỗng nhiên chúng ta nhận được cái giấy mời đi dự đám cưới của họ thì sao?
Chẳng lẽ đem dúm muối quăng xuống đại dương cho nước dưới biển mặn thêm một chút! Làm sao mà mặn thêm cho được! Nhưng không dúm thì cũng làm sao đổ được vài ba cái tầu chở muối cho đỡ tủi...
Mà có vài ba cái tầu chở muối, thì đã chắc đại dương mặn được thêm bao nhiêu.
Hay tặng cái cầu Brooklyn ở New York? Cái tháp Eiffel ở Paris, cái cầu Waterloo ở Luân Ðôn? Với những người mà cái gì cũng đã có thì phải như vậy chứ. Ngặt một điều mấy thứ vừa kể lại không bán bao giờ. Vậy thì mừng cái gì bây giờ?
Nỗi thắc mắc này, hôm qua tôi đã được giải tỏa.
Marilyn vos Savant, người phụ nữ với thương số thông minh (I.Q.) cao nhất thế giới đã bầy cho chúng ta cách kiếm một món quà cho những người như thế, những người tiền rừng, bạc bể, cái gì cũng có, tiên cũng mua được.
Theo Marilyn vos Savant, khi trả lời một thắc mắc khá giống ở trên, thì những người này không cần dúm muối của chúng ta, cũng không cần vài cái tầu biển chở muối của chúng ta để đổ xuống biển của họ. Họ cần sức khỏe, hạnh phúc và tình bạn, tình gia đình... hơn tất cả những thứ khác. Chúng ta không thể cho họ sức khỏe và hạnh phúc nhưng chúng ta có thể cho họ cái vai để tựa, bàn tay để nắm...
Marilyn vos Savant đề nghị lấy một chiếc hộp, gói cho đẹp, bên trong là một mảnh giấy viết mấy hàng chữ như thế này: Chứng chỉ này có thể đổi lấy một ân huệ đặc biệt, bất cứ cỡ nào, to nhỏ bao nhiêu cũng được. Xin gọi bất cứ lúc nào, ngày cũng như đêm, một năm 365 ngày. Quà tặng này có giá trị cho đến khi chúng tôi không còn ở trên đời này nữa. Gửi lời mừng đôi trẻ. (This certificate is redeemable for a special favor -- any size, including "really big." Please call any time, day or night, 365 days a year. The offer doesn't expire until we do. Congratulations.)
Có lý biết chừng nào. Từ nay, gia đình Bloomingdale, Dupont... có chuyện vui mừng, cứ việc gửi giấy mời. Tiền rừng bạc bể nhưng làm sao có được tờ giấy với mấy hàng chữ như thế!
Còn những giấy phạt khác thì cứ 200 trong lúc này cái đã.

October 11, 2012

October 12, 2012


Ngày 8 tháng 10 năm 2012

Bạn ta,
Nhà Văn Võ Phiến
Tuần tới, tôi sẽ đến thăm một người tôi rất quí mến từ nửa thế kỷ nay mặc dù nếu nói trước, ông sẽ nại cớ này hay cớ khác không muốn tôi đến thăm vì ngại tôi mất thì giờ của cái thời biểu rất bận rộn của tôi. Nhưng tôi sẽ vẫn đến, vì những lần trước, lần nào tôi đến, ông cũng vẫn tiếp tôi, giữ tôi lại ăn trưa với ông bà.
Tôi yêu ông ngay từ khi được gia đình từ Sài Gòn gửi cho tập truyện ngắn của ông và tôi đã dùng ngay tên tập truyện ấy để gọi cái hộp đựng những bức thư của ông bố tôi viết cho tôi trong những năm đi học xa: "Thư Nhà".
Cái tên ấy là tựa một tác phẩm của ông, cuốn sách đầu tiên giúp tôi "làm quen" với ông.
Sau bao nhiêu năm đọc ông (một cách religiously) mãi đến khi sang Mỹ tôi mới gặp ông. Trong chiếc va ly khi rời Việt Nam đi làm việc ở một nhiệm sở ngoại quốc, là mấy cuốn sách của ông mà tôi nhặt vội trong tủ sách ở nhà buổi chiều hôm ra phi trường…
Ra đi ngó trước ngó sau
Quơ … ông Võ Phiến còn mau lên đường...
Thế rồi trong cái tủ sách với vài ba cuốn sách ở căn nhà tại Toronto sau đó, vẫn lại là những cuốn sách của ông mà tôi mang theo, cùng với mấy cuốn khác (cũng của ông) mà tôi lấy lén từ thùng sách của chú em mang từ Nhật qua. Tôi đọc đi đọc lại những cuốn sách ấy trong suốt những năm sống xa Việt Nam. Có thể nói không có một người nào lại có thể đem lại cho tôi được nhiều hạnh phúc sung sướng như ông, qua những tác phẩm của ông, trên những trang giấy của những cuốn sách tôi có của ông.
Những cuốn sách ấy, có mấy cuốn bị mất đến hai, ba lần. Nói bị mất tới hai ba lần là vì mất cuốn sách nào (của ông), tôi kiếm mua ngay cuốn khác. Có lần tôi than than thở là kiếm không ra, thì tác giả nghe được, gửi cho ngay cuốn khác. Ông đã phải làm công việc đó ít nhất là hai lần.
Nguyên do là vì những người bạn nghe tôi nói về ly cà phê sữa ông viết trong một tùy bút, hay con chim én theo ông về Sài Gòn trong một chuyến đi, chiếc bóng đèn hột vịt ngoài cửa một phòng mạch, những cái hạt bọt trà, những sợi khói quằn quại, u hoài bốc lên từ những cánh đồng ở miền Tây mà người ta đốt sau mùa gặt … thì liền vào ngay tủ sách của tôi, kiếm cuốn Tùy Bút Võ Phiến , nói là mượn mang về đọc, nhưng sau đó nhất định không trả lại sau khi đọc thấy tấm bảng trên tủ sách của tôi với hàng chữ "Voler les livres ce n’est pas voler" của Voltaire để nại lý do ăn trộm sách không phải là ăn trộm để không mang trả sách lại nữa.
Tôi có đến thăm ông mấy lần, và lần nào cũng là lần đáng nhớ. Đáng nhớ nhất là một lần khi ông gọi rủ lại nhà chơi, tôi mang theo bộ đồ trà mua ở phố Tầu New York mấy chục năm trước mà tôi rất thích để biếu ông. Tôi thích bộ đồ trà ấy đến độ chỉ thỉnh thoảng cầm lên ngắm những cái chén tống, chén chuyên, những cái sniffer để ngửi, hay cầm cái muỗng tre để múc trà khô lên mà không dám pha trà vào để uống. Tôi mang biếu ông vì biết ông thích trà 403 và thấy trong tủ phòng khách có một chiếc ấm trà mà ông rất thích: chiếc ấm của Nguyễn Tuân.
May mà tôi mang bộ ấm chén lại nhà biếu ông lần đó. Nếu lần sau đến thăm mới mang theo thì lại hóa ra để đổi chác với ông hay sao? Mất cả sự quí hóa đi! Vì trong lần tôi đến viếng thăm đó, ông không hề biết có quà của tôi, ông đã ngồi chờ ở phòng khách với một món quà ông cho tôi ông đã để sẵn trên bàn. Ông cho tôi cái bút. Đó không phải là một cái bút mới mua, mà là một cái bút bi đã dùng rồi, có khắc tên của ông trên thân bút: Võ Phiến. Nhưng điều ông nói khi cho tôi cái bút mới lại là đáng quí. Ông nói là ông không dùng nó nữa nên ông quyết định cho tôi vì ông nghĩ nó nên ở tiếp với tôi. Đã từ lâu, tôi không viết bằng bút, ngoại trừ những lần trả bill viết check. Chuyện viết lách của tôi hoàn toàn được làm bằng computer. Ông cũng thế. Nhưng tôi quí cái bút ấy vô cùng, vì nó là quà của một nhà văn lớn cho lại tôi, một người cũng sống bằng chuyện viết lách (như ông, nếu tôi liều lĩnh khoe như thế.)
Cuối tuần tới, ngày 20 tháng 10, là sinh nhật thứ 87 của ông. Tôi sẽ đến chúc sinh nhật ông và mong ông còn ở với chúng ta nhiều năm nữa. Chỉ cần nghĩ rằng đi trên con đường số 5 ở Santa Ana, quẹo vào một khu cư xá, gõ cái cửa là gặp được ông cũng đã là hạnh phúc rồi.
Chợt nhớ một câu thơ "cải tiến" của Bà Huyện Thanh Quan : Gác bút, ông già (như bà vẫn gọi ông như thế) về viễn phố (có lẽ phải viết hoa ở đây?)…
Chúc ông sinh nhật vui vẻ.

Ngày 9 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Tôi tin là nhiều người về Việt Nam chắc chắn sẽ đi kiếm để ăn thử một món "đặc sản" của Hà Nội mà chính người Hà Nội đã nói tới như trong một bài luận văn của một học sinh Hà Nội.
Tôi rất khó chịu về hai chữ "đặc sản" này. Có thể là vì cái gốc Hán tự của nó. Bao nhiêu năm tôi đã quen với những chữ của Vũ Bằng , "Miếng Ngon Hà Nội", nên nghe hai chữ "đặc sản" thì không thấy hấp dẫn, không thấy ngon ngay được như khi đọc hai ông Vũ Bằng, Thạch Lam viết về bánh cuốn Thanh Trì, phở, bún ốc, bún riêu, xôi ngô, xôi xéo...
Mới đây, tôi còn được biết là ngay người dân Hà Nội sống ở thành phố đó, khi được nghe về món "đặc sản" ấy và đi tìm thì không thấy ở đâu bán cả. Người Hà Nội còn kiếm không ra, nói chi đến các Việt kiều về nước ghé thăm Hà Nội.
Nguyên là tuần qua, đọc một tờ báo trong nước, tôi mới biết được nỗi "bức xúc" của một người đàn ông Hà Nội khi ông được con gái, một học sinh đang học lớp 7 ở trường Lomonoxop muốn ông dẫn cho đi ăn món "đặc sản" ấy. Ông chưa nghe nói về món đó bao giờ nên hỏi con là nghe ai nói về nó. Con gái ông liền cho ông xem cuốn vở làm bài ở trường và nói rằng em đã viết lại những điều cô giáo giảng trong lớp và còn được cô giáo cho điểm tốt. Ông đọc bài viết của con và thấy cô giáo không sửa một chữ nào. Điều đó chứng tỏ cô đã đọc bài viết, đồng ý với các chi tiết trong bài và cho điểm cao (8 điểm) với lời phê "Có ý thức làm bài. Song cần rèn chữ viết, diễn đạt nhiều hơn."
Con gái ông cho biết chính cô giáo đã cho biết ở hồ Tây có món "đặc sản" đó và em muốn được bố dẫn đi ăn cho biết.
Cô giáo của em nói với em và các bạn cùng lớp về "món" canh gà ở Thọ Xương, một khu ở gần Hồ Tây khi giảng về mấy câu:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái , mặt gương Tây Hồ
Trong bài luận, em học trò lớp 7 viết "Tiếng chuông Trấn Vũ là nét đẹp tôn trọng thờ kính tổ tiên và canh gà Thọ Xương là món canh gà ở Hồ Tây, món ăn nổi tiếng của Hà Nội."
Cô giáo của em, cô Hà Thị Thu Thủy, nếu không phải là người sinh trưởng ở Hà Nội thì cũng phải là người sống ở Hà Nội. Mà nếu cô không là người Hà Nội hay sống ở Hà Nội thì cô cũng phải biết "canh gà Thọ Xương" là tiếng gà gáy vào lúc trời sáng từ làng Thọ Xương vọng lại. Cô là một người tốt nghiệp ban Ngữ Văn trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, có bằng thạc sĩ văn chương và được coi là giáo viên giỏi . Cô đã xin nghỉ không dậy ở trường Lomonoxop nữa.
Chao ôi, bằng thạc sĩ mà còn như thế thì bọn bằng giả hay không có bằng thì còn dốt đến đâu nữa. Mà đó là mấy câu ca dao về Hà Nội nơi sinh sống của cô. Lỡ mà đó lại là mấy câu dị bản:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Thì cô sẽ giảng cho các em như thế nào đây?
Có thể cô sẽ giảng "la đà" là những con la (lừa lai ngựa) cùng với những con lạc đà bị cái gậy tre quất cho mấy roi. Thiên mụ là mụ đàn bà ở trên trời, là vợ ông Trời, còn canh gà là món canh xương gà ở các tiệm Tầu để thành :
Roi tre vun vút vung ra
Lũ lạc đà với lũ la chạy cuồng
Vợ Trời giáng một hồi chuông
Gọi về ăn bát canh xương gà Tầu
Như giáo sư Vũ Quốc Thúc đã viết đùa trong cuốn hồi ký của ông.
Dốt như thế thì nói thế nào được nữa?
Cô giáo Thu Thủy sau khi rời trường Lomonoxop nên nhân dịp này mở một tiệm ăn ở làng Thọ Xương hay ở phố Hàng Gà Hà Nội, bán một vài món nấu bằng thịt gà như canh gà, miến gà, cháo gà, phở gà... lấy tên là Đặc Sản Gà Thọ Xương chắc sẽ kiếm được khá.
Tiệm sẽ bán cho những ai hiểu canh gà Thọ Xương là ... canh gà Thọ Xương. Tiệm của cô còn có thể chứng minh cho mọi người thấy là quả thực có món canh gà Thọ Xương thật chứ cô không hề giảng sai cho các học sinh.
Tại sao lại không làm như thế!

Ngày 10 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Jessica Stilwell ở Calgary, một thành phố cách Toronto không bao xa đã làm một công việc mà rồi đây, chắc chắn sẽ có nhiều người khác làm theo.
Người phụ nữ này làm việc cho bộ xã hội, có chồng, ba con gái gồm 2 sinh đôi 10 tuổi và lớn nhất 12 tuổi.
Ngoài công việc toàn thời gian ở sở xã hội, Jessica Stilwell còn có một công việc toàn thời gian khác 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày, 365 ngày một năm. Đó là việc làm mẹ full-time cho ba cô con gái. Việc làm đó không có ngày nghỉ thường niên, không nghỉ phép, không nghỉ bệnh bao giờ.
Trong khi đó, ba cô con gái không bao giờ nhấc một ngón tay nào lên để thu dọn phòng của chúng. Quần áo thay ra quăng trên sàn nhà. Sách vở ném bừa bãi. Chén bát ăn xong xếp đầy trên mặt bếp, trong wash basin ngập ngụa, nhà cửa thì không bao giờ thèm nay giúp cái máy hút bụi hay thu xếp lại cho gọn gàng. Cả ba hình như đều nghĩ cha mẹ chúng đương nhiên phải làm những việc đó.
Hôm 1 tháng 10, sau một ngày quần quật ở sở, rồi về nhà nấu nướng cho các con, lái xe cho các con đi thư viện, đi chợ, Jessica ngồi xuống ghế vào lúc 11 giờ đêm. Nhìn quanh, cô thấy căn nhà bừa bộn kinh hoàng trong khi cái đống bát nháo đó không hề do cô tạo ra hay do chồng cô để lại. Hôm ấy Don, chồng cô phải đi khỏi nhà vài bữa vì công việc. Cô quyết định không làm gì nữa, để mặc cho mọi thứ trong nhà bừa bộn như thế coi ra sao. Cô không nói gì với các con, chỉ lẳng lặng không làm gì hết. Không thu dọn, không giặt giũ, mặc cho quần áo quăng đâu ở nguyên đó. Bát chén cũng không rửa để một đống trong sink. Sữa lên men chua trong tô cereal cũng mặc kệ . Qua ngày thứ ba, một trong hai cô con gái 10 tuổi bật khóc và nhắc mẹ dọn dẹp. Jessica liền dẫn con đi khắp các phòng ốc trong nhà, chỉ cho thấy những cái đống bừa bộn, rác rến không hề là do cô hay cha chúng tạo nên. Sau 6 ngày, các con của cô đã phải tự động dọn dẹp nhà cửa mà cô không phải lên tiếng. Cô coi đó là một lời xin lỗi.
Jessica nói là sau đó, các con của cô thông cảm với cô hơn và biết nhận ra những việc làm của cha và của mẹ.
Tôi nhớ một bài tập đọc của năm học lớp nhì tiểu học. Bài tập đọc kể chuyện một đứa bé bị mẹ sai làm một vài việc. Làm xong, nó đưa cho mẹ một tấm giấy ghi lại những việc nó làm và đòi mẹ trả tiền công. Người mẹ lấy tiền trả cho nó. Sáng hôm sau, thức dậy, nó thấy một miếng giấy trên bàn ăn sáng, trong đó người mẹ ghi những việc bà đã làm cho nó đại khái như thế này:
Mang nặng đẻ đau: không tính.
Nuôi dưỡng suốt mấy năm trời: không tính.
Nấu ăn ba bữa mỗi ngày: không tính.
Săn sóc trong khi đau ốm: không tính.
Bênh vực an ủi khi bị bố phạt: không tính.
Dậy dỗ mọi chuyện ở nhà: không tính.
Tổng cộng: không tính.
Đứa bé đọc xong thì òa khóc và xin lỗi người mẹ, hứa không bao giờ còn dám kể công nữa.
Không biết đến bao giờ những người đàn ông sẽ làm được những việc tương tự sau khi nghe những câu như thế này: "Thôi, tôi đã quá chán cái đời sống này quá rồi. Anh có làm được gì cho tôi trong cái nhà này đâu. Con cái thì tôi mang nặng đẻ đau. Chúng nó mọc răng, cảm cúm cũng tôi. Đưa chúng nó đi chích ngừa cũng tôi. Dẫn chúng nó đi xin học cũng tôi. Dậy chúng nó bản cửu chương cũng tôi. Cơm nước cũng tôi lo cho cả mấy bố con anh. Nhà cửa dọn dẹp cũng tôi. Anh đẩy hộ cái máy hút bụi là may lắm. Giặt giũ cũng tôi. Cái xe thì anh giúp đổ xăng là nhiều. Rác rến một tuần hai lần anh bỏ ra trước nhà chứ mấy. Thỉnh thoảng nổi hứng anh bóp chân cho tôi vài phút rồi sau đó đòi quà (?) chứ tử tế lắm sao? Ối giời ơi, ra đường trông thấy tơ người / về nhà trông thấy tằm tôi, tôi buồn... Sao mà con khổ thế này cha mẹ ơi? Biết vậy thì tôi đã nghe mấy con bạn để thực thi chính sách chồng con là cái nợ nần/ chi bằng ở vậy nuôi thân béo tròn... Cũng vì anh mà tôi vóc hạc mình mai thế này anh có biết không…..."
Thế thì ăn nói thế nào?
Thôi em...mai anh đưa em ra Phước Lộc Thọ kiếm cái nhẫn cà rá để phòng thân, thấy con chó chạy đến gần rút cục hột soàn ra ném cho nó vỡ đầu chơi chịu không?
Vậy đã đủ chưa đây?

Ngày 11 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Tội nghiệp ông Rick Scott, thống đốc tiểu bang Florida. Chuyện vừa xẩy ra cho ông đúng là tình thì ngay trong khi lý thì gian hết sức.
Tại một cuộc họp với các cố vấn của ông để thảo luận về bệnh sưng màng óc mà tiểu bang Florida vừa ghi nhận một số trường hợp, ông đã phổ biến một số điện thoại để người dân có thể gọi vào tìm hiểu thêm về căn bệnh này cũng như các biện pháp chữa trị.
Đó là một số điện thoại miễn phí. Số điện thoại này được chính thống đốc Scott loan báo trên một đường dây điện thoại nóng.
Mới đây, bệnh sưng màng óc đã phát ra tại một số tiểu bang, trong đó có cả Florida. Đãù có gần 140 trường hợp nhiễm bệnh với 12 trường hợp tử vong, trong đó có 1 người ở Florida.
Lập tức nhiều người đã gọi tới số điện thoại mà thống đốc Scott phổ biến. Và sau mấy tiếng chuông reo, một giọng phụ nữ trả lời trong máy, hào hển, thều thào, và sexy kinh khủng rằng :" Hello boys. Thank you for calling me on my anniversary…!" Rồi sau đó là những câu thì thào khác nghe phấn khởi (?) vô cùng. Nàng hỏi chàng đôi ba câu, rồi bầy cho chàng đủ thứ trò chơi với nàng qua điện thoại. Nhiều người gọi tới, nghe nàng hỏi dăm ba câu thì cứ thế mà … đàm đạo về đủ mọi thứ chuyện, "nói hết cho lòng thỏa mối vương", tất cả những điều thầm kín muốn nói từ bao lâu nay …để cuối tháng, cái bill điện thoại gửi về nhà nhẩy lên vài ba trăm như chơi.
Cái số điện thoại ấy dĩ nhiên không cung cấp được bất cứ một chi tiết, hiểu biết, tin tức gì về bệnh sưng màng óc đang đe dọa tiểu bang Florida. Thay vào đó, cái giọng sexy hổn hển đó hỏi những người gọi đến những chuyện rất riêng tư của các chàng, rồi nói ra những đề nghị vui vẻ với các chàng mà nàng sáng chế (?) ra. Số điện thoại mà thống đốc Rick Scott phổ biến cho người dân lại là một số điện thoại để nói và nghe những chuyện người lớn, những chuyện phòng the kín đáo nhất mà nhiều người đàn ông cô đơn và bệnh hoạn gọi đến để giải tỏa những ẩn ức.
Những số điện thoại ấy, với area code nhiều nhất thường là 877 hay 888. Chúng thường được quảng cáo trên những trang báo dành riêng cho đàn ông với những hình ảnh các phụ nữ trẻ và rất đẹp quần áo không bao nhiêu. Coi hình, ai cũng muốn gọi lại tâm tình. Nhưng cách đây không lâu, một chương trình của hệ thống truyền hình ABC cho thấy các phụ nữ giọng sexy trong điện thoại đó thực ra ở ngoài đời lại chỉ là mấy chị béo sưng, béo xỉa, ăn welfare từ vài ba đời, sống trong những căn mobile home rách nát hay ở những xứ xa lắc ngoài khơi biển Ca-ri-bê chứ không hề là những người em sầu mộng của muôn đời bao giờ. Chỉ có cái bill điện thoại là có thật.
Thống đốc Rick Scott đã cho lầm số. Số thật chỉ khác con số ông cho lầm có một con số. Thế nào chẳng có người thắc mắc tại sao lại lầm như thế, hay là ông thống đốc cũng đã dùng cái số ấy vài ba lần rồi ? Nhưng chắc không phải. Nếu ông cho một con số hoàn toàn khác với con số 866-523-9339 thì ông cãi thế nào được. Nhưng con số ông cho chỉ khác con số thật có một số mà thôi nên ông đúng là tình ngay thật.
Hú vía.
Thực ra cũng đã từng xẩy ra một chuyện mà tòa Bạch Ốc đã bị nhiều người nghi oan. Đó là cái website whitehouse.com. Nhiều người truy cập cái website này thì được xem nhiều thứ hình ảnh vui đáo để. Whitehouse.com không hề dính líu gì tới tòa Bạch Ốc. Chủ của website này đã cố tình làm như thế để có được những người dùng computer ghé vào trang nhà của họ. Tòa Bạch Ồc biết chuyện đó nhưng không thể làm gì, không thể buộc họ phải dẹp cái website đó đi vì cái Tu Chính Án số Một còn nằm chình ình ở đây.
Nhưng nhờ để nguyên như thế nên nhiều người lại có được một cách bào chữa nghe rất lọt tai.
Định vào tòa Bạch Ốc thì mấy con khỉ đó ưỡn ẹo nhảy xổ ra chứ ai thèm đi kiếm mấy con heo đó.

Ngày 12 tháng 10 năm 2012
Bạn ta,
Cách đây hai hôm, Malala Yousufzai 14 tuổi, người Pakistan vừa bị bắn trọng thương vào mặt và cổ trong khi đang ngồi trên xe chở học sinh trên đường từ trường về nhà sau buổi học tại thung lũng Swat ở phía bắc Pakistan.
Phe Taliban đã lên tiếng nhận trách nhiệm, nói rằng Malala bị bắn vì đã kêu gọi giáo dục cho các phụ nữ. Điều này, theo những người Taliban là việc đi ngược lại với Muslim và chống lại phe Taliban, một tổ chức Hồi giáo võ trang ở Afghanistan và Pakistan. Taliban cho rằng hành động cổ vũ cho việc giáo dục phụ nữ là một hành động thân Tây phương và cần phải trừ khử.
Cách đây 3 năm, Malala Yousufzai, ngay từ khi mới 11 tuổi đã công khai tranh đấu đòi phụ nữ phải được hưởng một nền giáo dục như phái nam ở Pakistan, và như phụ nữ ở các nơi khác trên thế giới. Taliban đã mấy lần hăm là sẽ giết cho bằng được cô thiếu nữ này.
Cách đây hai hôm, Taliban đã suýt nữa làm được việc đó. Malala bị bắn nhưng không chết. Hai người bạn của cô cũng bị thương trong vụ này.
Báo chí nói rằng một người đàn ông của phe Taliban mang súng đã đến tận trường của Malala, tìm gặp cô và nổ súng bắn cô và hai người bạn trong khi các nữ sinh này đang ngồi trên xe chở học sinh để về nhà.
Malala là một thiếu nữ phi thường. Từ năm 2009, khi mới 11 tuổi, cô đã viết một blog thường xuyên cho đài BBC, nói lên lập trường tranh đấu của cô: đòi hỏi giáo dục cho phụ nữ. Cô bị hăm dọa nhiều lần và đã phải bỏ nhà đi trốn trong đêm tối nhiều lần khi những toán võ trang của Talibann đi tìm cô để giết. Mới đây cô còn quyên góp tiền để lập một quĩ giáo dục cho các thiếu nữ ở thung lũng Swat, một khu bộ tộc có nhiều ảnh hưởng của Taliban. Cô được chính phủ Pakistan trao tặng huân chương cao quí nhất về những việc làm đó. Chính phủ cũng đề nghị đưa người tới hộ vệ cô nhưng cô từ chối.
Bill Cosby
Cũng hai hôm trước, tôi đọc được bài viết của Bill Cosby, một kịch sĩ hài hước của Mỹ. Ông viết xuống một số điều nhân sinh nhật thứ 83 của ông. Đó là những suy nghĩ của ông về những điều ông nhìn thấy chung quanh, trong đó có một đoạn như sau:
Năm nay tôi đã 83 tuổi. Tôi có nhiều điều buồn muốn nói ra ở đây.
Tôi đã quá chán vì cứ phải nghe người ta nói mãi vào tai bao nhiêu lần rằng Islam là một tôn giáo của hòa bình trong khi mỗi ngày phải đọc cả chục bản tin nói về chuyện những người đàn ông Muslim giết chị mình, em mình, vợ mình, con gái mình để bảo vệ danh dự cho gia đình, hay những tin tức về người Muslim nổi loạn xuống đường đốt phá lung tung chỉ vì đôi ba chuyện làm cho họ không vui, hay các bản tin về những người Muslim giết những người Thiên Chúa giáo hay Do Thái giáo chỉ vì những người này là những người không theo đạo Muslim, hay những vụ người Muslim đốt các trường học của các nữ sinh hay ném đá đến chết các thiếu nữ nạn nhân của những vụ hiếp dâm và đổ cho họ tội ngoại tình. Tôi cũng đã quá chán phải nghe hoài về những vụ người Muslim cắt bỏ nhũng phần bộ phận sinh dục của phụ nữ chỉ vì kinh Koran và luật Sharia nói là phải làm như thế.
Tôi cũng đã quá chán cứ phải nghe giảng dậy rằng vì tôn trọng các nền văn hóa khác, chúng ta phải để cho Ả Rập Sauđi và các quốc gia Ả Rập khác dùng tiền mà họ có được qua việc bán xăng nhớt cho chúng ta vào việc tài trợ cho các trường madrassa để các trường này dậy và truyền bá tư tưởng thù ghét ở Úc, Tân Tây Lan, Anh, Canada và Hoa kỳ trong khi không ai được tài trợ cho các giáo đường, nhà thờ hay các trường học ở Ả Rập Sauđi hay các nước Ả Rập vẫn rao giảng yêu thương và khoan nhượng… ...
Vừa đọc xong đoạn văn trên thì tôi nghe tin Malala bị bắn.
Thế nên tôi cũng thấy chán hệt như Bill Cosby.
Tôi không sao không hình dung ra trong trí cảnh người anh hùng Taliban này, đầu quấn khăn, quần áo nhếch nhác vác khẩu AK (Ôi sao mà tôi ghét cái khẩu súng này thế hở Trời!) vào ngôi trường nhỏ của cô, hỏi người này người kia làm sao kiếm đươc Malala. Kiếm được cô bé này, người anh hùng Taliban lên đạn, lạnh lùng bóp cò bắn người thiếu nữ bé nhỏ, trong tay không một tấc sắt.
Hèn đến thế là cùng.
Bỗng tôi nhớ tới Tạ Phong Tần, Huỳnh Thục Vy, Phạm Thanh Nghiên, Mẹ Nấm, Trần Khải Thanh Thủy... tất cả đều cũng chẳng có khẩu súng, con dao nào trong tay cả mà sao cũng có bao nhiêu đứa rất sợ họ, tìm đủ mọi cách để diệt họ.
Nhưng cũng như Falala, không một ai sợ bầy chó hèn hạ đó cả.

ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

(Bài số 154)
IMPERSONAL PRONOUN
IF / WHETHER
Bản chuyển tả do QA thực hiện. Bài học số 154 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 12 năm 2012.
QUỲNH ANH:
Đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Trúc Giang và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.
Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại.
TRÚC GIANG
Thưa chú, trong tiếng Việt, cháu có thể nói "mưa rồi" hay "tuyết xuống dầy quá", hay "lạnh dữ dội"… Những câu như thế cháu không thấy có chủ từ, trong tiếng Anh có nói như thế được không?
QA
Thưa anh, trước khi anh trả lời Trúc Giang, QA xin nói QA nghĩ có thể khi nói như thế, người ta định nói "trời mưa" hay "trời tuyết," mà như vậy thì câu đã có chủ từ là "trời" rồi có phải không?
BBT
Đúng vậy, nhưng khi nói "khó lắm đấy" thì làm gì có chủ từ? Trong những câu như hai cô vừa nói, thì chủ từ (trong tiếng Việt) được hiểu ngầm. Thực ra, những câu đó có chủ từ chỉ trống. Trong tiếng Anh, đó là IMPERSONAL PRONOUN. Nó là đại danh từ không thay thế, không đại diện cho một danh từ nào đi trước nó cả. Đó là đại danh từ IT. Người Anh nói IT SNOWS; IT IS HOT; IT IS HARD... Cùng một đại danh từ IT, có khi nó là IMPERSONAL PRONOUN như trong những câu trên, nhưng nó cũng có thể là đại danh từ thường như I, YOU, HE, SHE, WE, THEY… khi nó đại diện cho một danh từ đi trước nó.
Thí dụ khi nói THIS TABLE IS VERY OLD. IT IS AT LEAST 50 YEAR OLD. Đại danh từ IT trong câu trên KHÔNG phải là IMPERSONAL PRONOUN vì nó có đại diện, nó có thay mặt, có thay thế cho một danh từ ở câu trước, danh từ TABLE.
TRÚC GIANG
Vậy thì thưa chú, người ta có hay dùng IMPERSONAL PRONOUN không, khi mà nó KHÔNG đại diện cho một danh từ nào cả?
BBT
Trái lại là khác, các cô chắc đã phải thấy nhiều trường hợp như thế, nghĩa là nhiều trường hợp người ta dùng IMPERSONAL PRONOUN. Thực ra, những câu dùng IMPERSONAL PRONOUN lại là những câu chúng ta rất hay gặp, rất hay dùng. Chúng giúp chúng ta rất nhiều. Thí dụ cách đặt câu như thế này: IT IS + ADJECTIVE chẳng hạn như IT IS CORRECT; IT IS RIGHT...
QA cho nghe 4 thí dụ với IT IS và ADJECTIVE coi.
QA
IT IS DIFFICULT
IT IS EASY
IT IS IMPOSSIBLE
IT IS POSSIBLE
BBT
Thế còn Trúc Giang?
TRÚC GIANG
IT IS EXPENSIVE
IT IS TERRIBLE
IT IS BAD
IT IS WONDERFUL
BBT
Bây giờ hai cô thử thêm vào cuối những câu thí dụ của hai cô một động từ nguyên mẫu với TO coi.
QA
IT IS DIFFICULT TO LEARN A NEW LANGUAGE
IT IS EASY TO COOK RICE
IT IS IMPOSSIBLE TO UNDERSTAND HIM
IT IS POSSIBLE TO FLY TO THE MOON
TRÚC GIANG
IT IS EXPENSIVE TO LIVE IN TOKYO
IT IS TERRIBLE TO SEE BLOOD
IT IS BAD TO TELL A LIE
IT IS WONDERFUL TO RETIRE IN HAWAII
BBT
Cám ơn hai cô. Thực ra người ta có thể bắt đầu câu bằng TO+VERB và sau đó tới IS+ADJECTIVE cũng được. Ý nghĩa không thay đổi. Nhưng dùng IT IS + ADJECTIVE ở phía trước thì câu mạnh hơn. Trúc Giang đảo ngược những thí dụ của QA và sau đó, QA đảo ngược mấy câu của Trúc Giang coi.
TRÚC GIANG
TO LEARN A NEW LANGUAGE IS DIFFICULT
TO COOK RICE IS EASY
TO UNDERSTAND HIM IS IMPOSSIBLE
TO FLY TO THE MOON IS POSSIBLE
QA
TO LIVE IN TOKYO IS EXPENSIVE
TO SEE BLOOD IS TERRIBLE
TO TELL A LIE IS BAD
TO RETIRE IN HAWAII IS WONDERFUL
BBT
Cám ơn hai cô. Bây giờ chúng ta đổi những câu trên thành thể nghi vấn tức là biến chúng thành câu hỏi. QA thử trước đi.
QA
IS IT EXPENSIVE TO LIVE IN TOKYO?
IS IT TERRIBLE TO SEE BLOOD?
IS IT BAD TO TELL A LIE?
IS IT WONDERFUL TO RETIRE IN HAWAII?
TRÚC GIANG
IS IT DIFFICULT TO LEARN A NEW LANGUAGE?
IS IT EASY TO COOK RICE?
IS IT IMPOSSIBLE TO UNDERSTAND HIM?
IS IT POSSIBLE TO FLY TO THE MOON?
BBT
Bây giờ chúng ta thử đổi những câu khác thành câu phủ định coi. QA bắt đầu trước.
QA
IT IS NOT EASY TO GET A JOB.
IT IS NOT NICE TO USE SWEARING WORDS.
IT IS NOT CHEAP TO EAT IN A JAPANESE SUSHI BAR.
IT IS NOT LATE TO GO BACK TO COLLEGE.
TRÚC GIANG
IT IS NOT EASY TO CARE FOR TWO DOGS.
IT IS NOT WISE TO TRY MARIJUANA.
IT IS NOT GOOD TO GO TO LAS VEGAS EVERY WEEK.
IT IS NOT SAFE TO TEXT AND DRIVE.
BBT
Những câu các cô vừa làm đều là nói chung chung thôi. IT IS NOT SAFE TO TEXT AND DRIVE thì nghĩa là tất cả mọi người nếu vừa lái xe vừa TEXT, vừa gửi message cho nhau thì đều rất nguy hiểm. Nhưng nếu muốn nói cho rõ hơn thí dụ như với Andrew mà vừa lái vừa text thì rất nguy hiểm, QA sẽ nói thế nào?
QA
IT IS NOT SAFE FOR ANDREW TO TEXT AND DRIVE.
BBT
Đúng rồi, chúng ta dùng FOR theo sau là tên người hay một đại danh từ đều được cả. Trúc Giang cho nghe mấy thí dụ khác coi.
TRÚC GIANG
IT IS GOOD FOR HIM TO EAT A LOT OF VEGETABLE.
IT IS LATE FOR ME TO GO HOME NOW.
IT IS BAD FOR HER TO TAKE IN TOO MUCH SUGAR AND SALT.
IT IS POSSIBLE FOR HIM TO WALK TO SAN DIEGO.
BBT
Đến lượt QA cho nghe mấy thí dụ của cô.
QA
IT IS EASY FOR US TO PROMISE THINGS BUT IT IS DIFFICULT FOR US TO KEEP OUR WORDS.
IT IS IMPOSSIBLE FOR THEM TO GO BACK TO VIETNAM.
IT IS NOT EASY FOR HIM TO KEEP THE HOUSE.
IT IS NICE FOR HER TO CALL THEM ON THE PHONE.
TRÚC GIANG
Thưa chú thỉnh thoảng cháu phải đứng trước một sự lựa chọn, hay nói lên một điều không chắc chắn cho lắm, một điều có thể xẩy ra hoặc thế này hay thế kia thì cháu phải nói thế nào trong tiếng Anh?
QA
Vâng, thưa anh thí dụ như khi QA lưỡng lự không biết phải làm việc này hay việc kia thì phải dùng cách đặt câu ra sao?
BBT
Có hai cách nhưng trước hết chúng ta sẽ nói tới cách dùng với chữ IF. Chữ IF này không hề đưa ra một điều kiện nào như cách dùng IF trong những câu điều kiện cách tức là CONDITIONAL SENTENCES. Như thế này là điều kiện cách: IF IT RAINS, WE WILL STAY INSIDE. Điều kiện là IT RAINS, là trời mưa. Hậu quả, hay sự lựa chọn là WE STAY INSIDE.
Bây giờ, chúng ta sẽ nói về những câu IF trước những lựa chọn, những chuyện có thể xẩy ra như thế này hay thế kia mà chúng ta phải đối mặt rất thường trong đời sống.
Thí dụ khi chúng ta nói câu này: tôi không biết (liệu) anh ấy có nhà (hay) không. Thì như hai cô thấy câu này không hề đặt ra một điều kiện nào hết. Chúng ta sẽ nói thế này: I DO NOT KNOW IF HE IS AT HOME (OR NOT). Chúng ta thêm OR NOT vào cuối cũng được mà nếu không thêm vào thì cũng chẳng sao.
Mệnh đề chính là I DO NOT KNOW. Mệnh đề phụ là IF HE IS AT HOME (OR NOT). Nhưng không phải mệnh đề chính lúc nào cũng thế. Mệnh đề chính có thể là tôi muốn biết; tôi muốn tìm hiểu; tôi muốn biết chắc; tôi muốn nghe…
Trúc Giang cho nghe hai thí dụ với tôi muốn biết và tôi muốn tìm hiểu coi.
TRÚC GIANG
I WANT TO KNOW IF THE MAIL HAS ARRIVED (OR NOT).
I WANT TO FIND OUT IF HE IS AN AMERICAN (OR NOT).
BBT
Còn QA?
QA
I WANT TO BE SURE IF THE CAR WILL RUN (OR NOT).
I WANT TO HEAR IF SHE IS OKAY WITH HER NEW JOB (OR NOT).
BBT
Dĩ nhiên chúng ta cũng có thể dùng những câu trên trong thể phủ định. Trúc Giang và QA biến các thí dụ của hai cô thành phủ định với những chủ từ khác coi.
TRÚC GIANG
WE DON’T WANT TO KNOW IF THE MAIL HAS ARRIVED (OR NOT).
THEY DON’T WANT TO FIND OUT IF HE IS AN AMERICAN (OR NOT).
QA
SHE DOESN’T WANT TO BE SURE IF THE CAR WILL RUN (OR NOT).
HE DOESN’T WANT TO HEAR IF SHE IS OKAY WITH HER NEW JOB (OR NOT).
BBT
Bây giờ chúng ta sẽ đổi các thí dụ trên thành câu hỏi.
TRÚC GIANG
DO THEY WANT TO KNOW IF THE MAIL HAS ARRIVED (OR NOT)?
DOES SHE WANT TO FIND OUT IF HE IS AN AMERICAN (OR NOT)?
QA
DO THEY WANT TO BE SURE IF THE CAR WILL RUN (OR NOT)?
DO WE WANT TO HEAR IF SHE IS OKAY WITH HER NEW JOB (OR NOT)?
BBT
Thay vì IF, chúng ta có thể dùng WHETHER, ý nghĩa cũng không thay đổi gì. Trúc Giang cho nghe hai thí dụ với WHETHER thay vì IF coi.
TRÚC GIANG
HE DOESN’T SAY WHETHER HE IS STAYING (OR NOT)
WE CANNOT SAY WHETHER WE WILL BUY THIS HOUSE (OR NOT)
QA
SHE IS NOT SURE WHETHER SHE WILL GO HOME NEXT WEEK (OR NOT).
WE WANT TO FIND OUT WHETHER THEY KNOW THE WHOLE STORY (OR NOT)
BBT
Cám ơn Trúc Giang và QA.
QUỲNH ANH
Thưa quí vi, chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày của Hồn Việt Television đến đây xin tạm chấm dứt. Chương trình sẽ trở lại trên màn ảnh Hồn Việt Television trong bài học tới. Bùi Bảo Trúc, Trúc Giang và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.